11:33
|
Tự do ngôn luận và các giới hạn về tự do
ngôn luận
Thời gian gần đây, một nhóm người tự nhận là "đại
diện giới bloger Việt Nam" đưa ra cái gọi là "tuyên bố 258".
Qua ngôn từ đã sử dụng, có thể thấy nhóm người làm ra "tuyên bố"
này dường như muốn áp dụng hình mẫu tự do ngôn luận kiểu phương Tây vào Việt
Công ước nhân quyền châu Âu (Công ước) có hiệu lực từ ngày
3-9-1953. Công ước đưa ra các quy định về các quyền cơ bản của con người,
trong đó quyền tự do ngôn luận được ghi trong Ðiều 10 của Công ước, theo đó:
"1. Tất cả mọi người đều có quyền tự do bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm
việc được tự do bày tỏ ý kiến và tự do trao đổi các thông tin mà không cần
phải nhận được bất kỳ việc cho phép nào từ phía cơ quan công quyền và không
phân biệt biên giới. (Tuy nhiên) điều luật này không có nghĩa ngăn cấm các quốc
gia thành viên đưa ra các biện pháp kiểm soát đối với các doanh nghiệp kinh
doanh phát thanh, truyền hình, điện ảnh. 2. Việc thực hiện các quyền nói
trên, bao gồm cả các nghĩa vụ và trách nhiệm, hình thức, điều kiện, các hạn
chế hoặc các biện pháp trừng phạt cần phải được ghi rõ trong các văn bản pháp
luật có cân nhắc đến việc cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích
đối với an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì trật tự công cộng và
ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ sức khỏe và đạo đức, nhân phẩm hoặc danh dự của
con người, ngăn ngừa việc phát tán các thông tin mật hoặc để bảo đảm quyền
lực vàtính độc lập của các cơ quan tư pháp". Như vậy, nếu khoản 1 của
Ðiều luật này quy định nguyên tắc chung về tự do ngôn luận, theo đó ai cũng
có quyền được bày tỏ, trao đổi quan điểm của mình mà khôngphân biệt địa vị xã
hội, giới tính, biên giới, thì khoản 2 lại quy định việc thực thi các quyền
đó và các hạn chế được cụ thể hóa trong pháp luật của mỗi quốc gia. Vì mỗi
quốc gia đều cân nhắc tình hình thực tế của mình để đưa ra các đạo luật nhằm
cụ thể hóa việc thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân.
Khi nói đến quyền tự do của con người, phần lớn các luật
gia ở châu Âu đều chịu ảnh hưởng của học thuyết cho rằng con người rất dễ lạm
dụng quyền của mình được hưởng, sự lạm dụng đó rất dễ gây phương hại cho
người khác (summum jus, summa injuria - tạm dịch: tự do quá trớn sẽ tạo ra sự
bất công). Vì vậy, không thể có tự do không giới hạn. Xuất phát từ quan điểm
đó mà Liên minh châu Âu (gồm 28 quốc gia) cho phép các nước thành viên cân
nhắc lợi ích của mỗi quốc gia để đưa ra các quy định cụ thể, nhằm hướng dẫn
các công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận. Ðó là quyền tự do ngôn luận
phải nằm trong nguyên tắc bảo đảm "an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ,
duy trì trật tự công cộng và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ sức khỏe và đạo đức,
nhân phẩm hoặc danh dự của con người, ngăn ngừa việc phát tán các thông tin
mật, bảo đảm quyền lực và tính độc lập của các cơ quan tư pháp".
Nước Pháp là một trong những quốc gia tham gia soạn thảo
bản Công ước và là một trong những nước được coi là hình mẫu trong việc tôn
trọng tự do ngôn luận. Trên thực tế, trước khi có Công ước, nước Pháp đã xây
dựng cho mình một hệ thống pháp lý tương đối đầy đủ nhằm bảo đảm đến mức tối
ưu quyền tự do ngôn luận của người dân thông qua Luật tự do báo chí 1881
(Luật 1881). Luật này được coi như là bộ luật gốc điều chỉnh các hành vi bày
tỏ ngôn luận của mọi người.
Pháp luật về tự do ngôn luận của nước Pháp đưa ra các giới
hạn, các chế tài nghiêm khắc trừng trị người nào lạm dụng quyền tự do ngôn
luận làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Và cần chú ý,
vì Bộ luật Hình sự không thể ghi hết các tội danh phát sinh trong thực tế, do
đó nhiều văn bản luật không phải là Bộ luật Hình sự vẫn quy định các hình
phạt mang tính hình sự. Trước hết đó là việc bảo vệ nhân phẩm con người,
chống lại việc vu khống, bôi nhọ (Ðiều 29 Luật 1881), bảo vệ, chống lại việc
xâm phạm đời tư (Ðiều 9 Bộ luật Dân sự), chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo
(Ðiều 32 Luật 1881), kích động bạo lực, gây hận thù (Ðiều 24 Luật 1881).
Ngoài ra pháp luật nước Pháp cũng đưa ra các quy định nhằm bảo vệ một số lợi
ích cơ bản của quốc gia, như cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an
ninh quốc gia (Ðiều 413 - 9 Luật hình sự), hoặc các tài liệu liên quan đến vụ
án đang trong quá trình xét xử, ca ngợi tội phạm chiến tranh và tội ác chống
lại loài người (Ðiều 24 Luật 1881). Sau đây là một số thí dụ cụ thể:
Ðiều 29 Luật 1881 quy định: "tất cả những nhận định
hoặc quy kết cho một sự kiện gây thiệt hại đến danh dự hoặc nhân phẩm của cá
nhân hoặc tổ chức có liên quan đến sự kiện đó đều bị coi là hành động vu
khống". Ðiều luật này đưa ra định nghĩa về bôi nhọ là: "tất cả
những phát ngôn có tính chất lăng nhục, sử dụng thuật ngữ miệt thị hoặc chưa
được kiểm chứng". Phạm vi áp dụng của Ðiều 29 rất rộng, vì không chỉ áp
dụng để bảo vệ uy tín, danh dự cho một cá nhân, mà cho cả các cơ quan, tổ
chức. Án lệ đưa ra hàng loạt cơ quan, tổ chức cần phải được bảo vệ trước hành
vi vu khống, đó là: các cơ quan nhà nước (án lệ Tòa phá án hình sự ngày
26-4-1952), Quốc hội, trường đại học, Hội đồng nhân dân (án lệ Tòa phá án
hình sự ngày 23-5-1955), bệnh viện công (án lệ Tòa dân sự ngày 30-9-1998; tòa
hình sự ngày 3-7-1996), cơ quan cảnh sát (án lệ Tòa phá án hình sự ngày
3-12-2002).
Bản án của Tòa phá án hình sự ngày 3-12-2002 là một thí dụ
về việc trừng phạt hành động vu khống cơ quan nhà nước. Tóm lược sự việc: một
luật sư bị kết án hình sự sau khi được nhận định đã viết một bài phản đối các
hành vi của cảnh sát; vì vị luật sư đó cho rằng các hành động của cảnh sát
giống như bọn "Gestapo" (mật vụ của Ðức Quốc xã trước đây), hoặc
cho rằng các hành động của cảnh sát là "dã man". Tòa án nhận định:
"nếu việc thực hiện các quyền tự dongôn luận được bảo đảm bằng khoản 1
Ðiều 10 của Công ước thì theo quy định tại khoản 2 của Công ước, việc thực
hiện đó phải tuân thủ các giới hạn và các chế tài được quy định tại Luật
1881; đây chính là mục đích của Ðiều 30 Luật 1881 khi đưa ra các chế tài cần
thiết trong một xã hội dân chủ nhằm bảo vệ trật tự công và uy tín của các cơ
quan quản lý nhà nước và trong trường hợp này là cơ quan cảnh sát". Một
thí dụ khác cho thấy, người đưa tin có thể bị kiện về tội vu khống đối với cá
nhân, đó là việc nêu cụ thể danh tính của một người nào đó trong một vụ việc
mang tính hình sự hoặc cần có kết luận cuối cùng của tòa án hay cơ quan chức
năng, như ai đó chỉ cần nói câu "Nicolas đã ăn cắp 10.000 euros của
mẹ" thì sẽ bị coi là hành động vu khống.
Về các vi phạm trên mạng internet, trước hết cần khẳng
định internet cũng chỉ là một trong các phương tiện để mỗingười thể hiện ý
kiến của mình. Do đó việc bày tỏ quan điểm trên internet cũng chịu sự điều
chỉnh của Luật 1881. Án lệ của Pháp đã đưa ra rất nhiều vụ việc lạm dụng
internet để vu khống, bôi nhọ. Mới đây nhất là việc tòa án công nhận nhiều
quyết định sa thải nhân viên do đã lạm dụng facebook để vu khống, nói xấu
người khác. Vụ việc đầu tiên là vào năm 2010, một số nhân viên của một công
ty viết trên "tường" của facebook các câu chê bai doanh nghiệp của
mình. Họ đã bị cho nghỉ việc. Các nhân viên này kiện ra tòa với lý do
facebook chỉ là nhật ký mang tính đời tư (cá nhân) cho nên họ có quyền viết
lên đó các suy nghĩ của mình. Tuy nhiên Tòa lao động vùng
Mới đây nhất liên quan đến lĩnh vực hình sự: là việc Tòa
hình sự Paris xử phạt số tiền 500 euros và phạt án treo đối với một nhân viên
trực tổng đài vùng Caen do đã viết trên facebook của mình một số câu, trong
đó có câu "một ngày chết tiệt, thời gian chết tiệt, công việc chết tiệt,
văn phòng chết tiệt, sếp chết tiệt" ("Journée de merde, temps de
merde, boulot de merde, boite de merde, chefs de merde"). Tòa án nhận
định: "việc phát ngôn một cách xúc phạm đã vượt quá giới hạn của một sự
chỉ trích thông thường" để ra phán quyết trừng phạt nhân viên này. Ngoài
việc chịu trách nhiệm hình sự, nhân viên kể trên còn phải bồi thường thiệt
hại cho các nguyên đơn dân sự (cơ quan nơi người này làm việc và cán bộ phụ
trách trực tiếp của nhân viên này) mỗi người là 1 euro (báo Le Monde ngày
17-1-2012). Phần lớn các ý kiến ủng hộ quyết định của Tòa án đều cho rằng
mạng xã hội không phải là không gian riêng tư vì người sử dụng internet không
thể kiểm soát được lượng người truy cập vào tài khoản của mình. Quan điểm này
cũng được Công tố viên tuyên bố trước Tòa phúc thẩm
Ths, LS Vũ VĂN
TÍNH
(NCS Ðại học
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét