15:01
Mối đe dọa từ chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc
Những cuộc biểu tình trong các thành phố Trung
Quốc, cùng với những lời lẽ công kích Nhật của truyền thông và trên Internet
liên quan các đảo tranh chấp ở biển Hoa Đông, đã tạo áp lực để giới chức
Trung Quốc nhất định phản đối Nhật “xâm phạm”.
Các
nhà phê bình nổi tiếng ở Trung Quốc và dân chúng kêu gọi Bắc Kinh chấp nhận
một phương pháp tranh chấp lãnh thổ gay gắt hơn ở biển Hoa Đông. Và Bắc Kinh
đã sử dụng những biện pháp đặc biệt, bao gồm sử dụng lực lượng an ninh, trừng
phạt kinh tế, dự án khai thác dầu và đánh bắt cá, các qui định hành chính,
cảnh báo qua đường ngoại giao và những biện pháp đe dọa khác nhưng không có
mặt quân đội. Cho đến nay, đây là nỗ lực thành công trong dọa nạt các nước
Đông Nam Á và ngăn ngừa châu Á đoàn kết chống trả.
Những
nhà phân tích nước ngoài đã đúng khi cho rằng phần lớn động cơ để người dân
và tầng lớp ưu tú Trung Quốc tăng áp lực tranh chấp lãnh thổ đến từ một loại
chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa này được giới chức Trung Quốc hăng hái hun đúc
kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh và hệ thống chủ nghĩa Cộng sản suy yếu.
Lý thuyết chủ nghĩa dân tộc nhấn mạnh rằng từ thế kỷ 19, Trung Quốc bị đối xử
không công bằng, lãnh thổ Trung Quốc và chủ quyền có liên quan cũng bị các
thế lực khác khai thác; Trung Quốc vẫn trong quá trình xây dựng quyền lực đủ
để bảo vệ những gì mà Trung Quốc kiểm soát và để giành lại chủ quyền và phần
lãnh thổ bị tranh chấp. Nói chung, lý thuyết chủ nghĩa dân tộc dẫn đến một ý
thức về “nạn nhân hóa” ở người dân và tầng lớp ưu tú Trung Quốc, đây là bộ
phận được cho là có ảnh hưởng đến hoạt động đối ngoại nhiều hơn.
Tiếc
thay, nhấn mạnh sự ngược đãi trong quá khứ và hiện tại chỉ là một phần của
loại chủ nghĩa dân tộc vị kỷ mà giới chức Trung Quốc nuôi dưỡng. Điều cũng
quan trọng không kém là nỗ lực xây dựng hình ảnh Trung Quốc trên thế giới như
một thế lực hành động ngay thẳng, khác với những thế lực chỉ theo đuổi mưu
cầu lợi ích quốc gia. Những nỗ lực này được thực hiện bởi bộ ngoại giao Trung
Quốc, những tổ chức chính phủ khác, tổ chức đảng và quân đội phụ trách đối
ngoại, các tổ chức bề ngoài là NGO (phi chính phủ) nhưng có quan hệ gần gũi
với chính phủ, các văn phòng Đảng và quân đội, cùng bộ máy tuyên truyền qui
mô của chính phủ Trung Quốc. Họ thúc đẩy vị thế quốc tế của Trung Quốc trong
khi tập cho người dân suy nghĩ tích cực về quan hệ đối ngoại của Trung Quốc.
Ví
dụ như, người ta nói chính sách đối ngoại của Trung Quốc tuân theo những
nguyên tắc giải quyết các vấn đề đối ngoại bảo đảm vị thế đạo đức của Trung
Quốc trong quan hệ đối ngoại - nền tảng cho các chiến lược đối ngoại có hiệu
quả. Đáng chú ý là những chiến lược như thế đảm bảo Trung Quốc không phạm sai
lầm trong đối ngoại, một vị thế đặc biệt được củng cố bởi sự việc là Trung
Quốc được mô tả như là đã tránh thừa nhận công khai sai lầm trong chính sách
đối ngoại hay xin lỗi vì những hành động đối ngoại của họ. Chắc chắn là cá
nhân một số viên chức hoạch định đối ngoại của Trung Quốc có thể không đồng ý
với hình ảnh ngay thẳng của Trung Quốc trong đối ngoại, nhưng họ không đi
trệch khỏi tính chính thống đã được dân chúng và tầng lớp ưu tú chấp nhận.
Bất cứ chỉ trích nào của người dân và tầng lớp ưu tú Trung Quốc cũng có xu hướng
tập trung vào việc Trung Quốc quá nhút nhát và không đủ mạnh mẽ khi ứng phó
với sự lăng mạ của nước ngoài.
Ngày
nay, nỗ lực xây dựng hình ảnh của Trung Quốc thúc đẩy vai trò chủ đạo của
Trung Quốc ở châu Á và thế giới, điều này được dân chúng Trung Quốc cổ vũ
rộng rãi; họ dự báo một cách lạc quan rằng Trung Quốc sẽ đi theo những chính
sách ôn hòa, chú trọng một số chủ đề gần đây được chính phủ lưu tâm. Các chủ
đề này bao gồm thúc đẩy hòa bình và phát triển ở nước ngoài, tránh vị thế
thống trị hay bá chủ khi ứng xử với láng giềng hay các nước khác ngay cả khi
thế lực Trung Quốc tăng lên, và theo đuổi thành tích của các triều đại trong
lịch sử Trung Quốc mà không tìm cách bành trướng.
Xây
dựng hình ảnh như thế trong lý thuyết chủ nghĩa dân tộc về quan hệ đối ngoại
hiện đại của Trung Quốc đi xa sự thật hơn là sự ngược đãi được mô tả trong
lịch sử Trung Quốc: Trung Quốc bị nhiều cường quốc khác nhau áp bức trong
phần lớn thế kỷ 19 và 20. Ngược lại, chứng cớ về một phương pháp ôn hòa, đạo
đức và theo nguyên tắc là ngoại lệ hơn là qui luật trong quan hệ đối ngoại
phức tạp nhưng thường là bạo lực trong phần lớn thời gian của 60 năm thành
lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là trường hợp đặc biệt ở châu Á, một khu
vực từ lâu chịu ảnh hưởng Trung Quốc lớn nhất và được Trung Quốc chú ý nhiều
trong quan hệ đối ngoại. Phần lớn các láng giềng của Trung Quốc từng bị lực
lượng an ninh Trung Quốc xâm lấn hay xâm chiếm; các nước này và những nước ở xa
hơn đã chiến đấu với những lực lượng nổi dậy được Trung Quốc ủng hộ và “ủy
quyền”, trong đó có Khmer Đỏ. Trong tình trạng rối ren như thế, các lãnh đạo
Trung Quốc lại thừa nhận ủng hộ những nguyên tắc và sự ngay thẳng trong đối
ngoại, nhưng từ quan điểm của các nước láng giềng và các chuyên gia nước
ngoài, những nguyên tắc tiếp tục thay đổi và khoảng cách giữa nguyên tắc và
hành động thường rất xa.
Trong
thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc đã cố gắng trấn an các lãnh đạo láng
giềng nhưng kết quả đạt được không bao nhiêu vì họ nhớ rất rõ tính chất bạo
lưc và hành động dọa dẫm của Trung Quốc trong quá khứ. Hành vi hung hăng gần
đây của Trung Quốc ở Biển Đông và Hoa Đông cững gợi nhớ những cố gắng dọa dẫm
và áp bức của Trung Quốc trong quá khứ. Một phần vấn đề trong nỗ lực trấn an
của Trung Quốc là dân chúng và tầng lớp ưu tú Trung Quốc hầu như không nhận
thức sự hung hăng của Trung Quốc trong quá khứ, và do đó ít hiểu rõ những
nguyên nhân đằng sau sự nghi ngờ và lo ngại của nhiều chính phủ láng giềng,
và của nước Mỹ, thế lực chủ yếu ở ngoài khu vực. Về nước Mỹ, một hành động
khác được thúc đẩy bởi chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ ở Trung Quốc là phản đối ầm ĩ
các thế lực bên ngoài thiết lập và duy trì vị thế ảnh hưởng và sức mạnh chung
quanh Trung Quốc. Những động thái như thế của Liên Xô trong quá khứ và của
Mỹ, Nhật và Ấn Độ hiện nay, được chính phủ Trung Quốc nhìn thấy và phóng đại
như là một mối đe dọa cho Trung Quốc, một sự phục hồi “chính sách ngăn chặn”
thời Chiến tranh Lạnh hay những hệ thống khác.
Nhận
định của dân chúng và tầng lớp ưu tú Trung Quốc chịu ảnh hưởng mạnh mẽ không
chỉ của chủ nghĩa dân tộc, cho rằng Trung Quốc bị các cường quốc khác áp bức.
Điều quan trọng không kém là chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc cũng bao gồm một ý
thức mạnh mẽ và kỳ lạ về đạo đức và sự ngay thẳng trong đối ngoại. Do đó,
quan điểm của Trung Quốc là bất cứ vấn đề nào Trung Quốc đối mặt liên quan
các nước khác, kể cả Mỹ, về những vấn đề nhạy cảm như là chủ quyền và an
ninh, đều do họ gây ra và chắc chắn không phải do Trung Quốc. Vì vậy, Trung
Quốc khó có thể kiên nhẫn với lời phàn nàn của các nước đang có tranh chấp và
lời kêu gọi Trung Quốc dàn xếp những vấn đề nhạy cảm liên quan chủ quyền và
an ninh, chưa kể dân chúng và tầng lớp ưu tú còn thúc đẩy các biện pháp cứng
rắn hơn. Việc xây dựng hình ảnh của Trung Quốc do vậy đã thành công trong
định hình quan điểm dân chúng; góp phần gây khó khăn trong giải quyết những
căng thẳng trong vùng biển gần Trung Quốc và làm cho khả năng này là không
thể trong tương lai có thể nhìn thấy.
Võ Phương (INTERNATIONAL AFFAIRS)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét