Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012


10:34
Từ Scarborough tới Đảo chữ Thập:
Lịch sử lặp lại?

SGTT.VN - Vào sáng ngày 13.7, trong khi phiên cuối cùng của Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN đang diễn ra, Trung Quốc lại tiếp tục hành động gây hấn khi đưa 30 tàu cá trọng tải từ 140 tấn trở lên, trong đó có một tàu tiếp tế trọng tải 3.000 tấn tới đánh bắt cá tại Đảo đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa trong 20 ngày.
Tàu cá Trung Quốc được hậu thuẩn từ chính quyền tiến vào Biển Đông của Việt Nam thành từng nhóm
Đây là một trong những đội tàu cá lớn nhất xuất phát từ đảo Hải Nam từ trước đến nay, gồm các thủy thủ chuyên nghiệp, có trang bị hệ thống định hướng và lần đầu tiên có sự tham gia tổ chức của Hiệp hội ngư dân.
Dường như đây là một bước đi đã được tính toán sẵn từ lâu và nằm trong chiến lược gặm nhấm chủ quyền các nước khác trên biển Đông của Trung Quốc. Đó là hành động tất yếu sau khi phép thử ở Scarborough thành công. Sự kiện tàu cá Trung Quốc chiếm Scarborough suốt từ tháng 4 đến nay không chỉ là hành động dằn mặt và chèn ép Philippines, hơn thế nữa, đó là phép thử để Trung Quốc thực hiện hành động xác quyết chủ quyền trên thực tế, từ đó hỗ trợ cho các tuyên bố pháp lý về yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với biển Đông. Việc sử dụng các cơ quan dân sự để thực hiện các mục đích chính trị là một biện pháp Trung Quốc đã sử dụng lặp đi lặp lại trong thời gian qua, nhưng sau sự kiện Scarborough, rõ ràng là đã có những sự phát triển về cách thức thực hiện.
Trung Quốc hiện là nước có cơ sở pháp lý yếu nhất trong các bên đang tranh chấp ở biển Đông, nên việc tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bị coi như phi lý và trơ trẽn, nước này cũng không thể chỉ tuyên bố chủ quyền rồi đợi các nước khác phải nghe theo. Nhưng nếu sử dụng vũ lực gây xung đột để ép các nước khác thì Trung Quốc còn gặp rủi ro lớn hơn khi Mỹ luôn có thể can thiệp. Chính phủ Mỹ đã từng tuyên bố biển Đông có liên quan đến “lợi ích quốc gia” của Mỹ, lâu nay vẫn liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của châu Á – Thái Bình Dương và đặc biệt quan tâm đến vấn đề biển Đông. Hơn nữa, Mỹ cũng luôn ủng hộ đưa vấn đề biển Đông ra đàm phán đa phương và thể hiện mong muốn can thiệp vào khu vực.
Vì vậy Trung Quốc không còn cách nào tốt hơn để xác quyết chủ quyền là sử dụng các cơ chế dân sự với số lượng lớn. Tàu cá của các nước khác không thể nhiều bằng số tàu của Trung Quốc, và họ sẽ phải nhờ đến lực lượng cảnh sát biển hoặc hải quân, nhưng khi quân đội tranh chấp với tàu cá Trung Quốc thì cũng xảy ra những rủi ro. Do số lượng tàu cá quá đông, không thể ngăn cản nên Trung Quốc vẫn có thể duy trì sự hiện diện trong khu vực, một bước đi để biến vùng không tranh chấp thành tranh chấp. Nhưng nếu hải quân nước khác cố sử dụng vũ lực để ngăn cản thì Bắc Kinh sẽ xem đó là hành động gây chiến và sẽ lợi dụng cơ hội để gây chiến tranh cục bộ, chiếm lấy vùng chủ quyền của nước khác và thực hiện chiến lược “sự đã rồi”.
Như tại bãi đá ngầm Scarborough của Philippines, tàu hải giám và ngư chính của Trung Quốc đã ngăn cản các tàu của Philippines bắt giữ ngư dân nước này, và ngăn cản cả ngư dân Philippines đánh bắt. Do số lượng tàu cá Trung Quốc vượt trội, phía Philippines đã phải đứng nhìn mà không thể làm gì. Trung Quốc cũng không gây ra xung đột nên Mỹ - đồng minh chủ chốt của Philippines cũng không thể can thiệp.
Việc cả một đội tàu đánh cá lớn được đưa đến Trường Sa đúng vào lúc đang diễn ra Hội nghị ngoại trưởng ASEAN cho thấy phép thử thứ hai của Trung Quốc nhằm vào các bên tranh chấp chính, cụ thể ở đây là Việt Nam và rộng lớn hơn là cả ASEAN.
Thứ nhất, liệu rằng ASEAN có đồng lòng trong việc lên tiếng ủng hộ Việt Nam hay không? Liệu ASEAN có đưa ra những lời lẽ cứng rắn cùng với các cường quốc khác phản đổi Trung Quốc hay không. Nếu có, nó sẽ cho thấy một ASEAN vững mạnh và đoàn kết trước các vòng đàm phán COC, ngược lại là một ASEAN nhìn bề ngoài có vẻ đoàn kết nhưng thực tế thì không phải như vậy và Trung Quốc sẽ dễ dàng khai thác điểm yếu này.
Thứ hai, khác với Philippines, Việt Nam là quốc gia có nhiều tranh chấp nhất với Trung Quốc tại biển Đông, có lực lượng quân sự thuộc loại mạnh nhất trong khu vực Đông Nam Á, có lời lẽ cùng hành động chắc chắn và quả quyết hơn. Vì thế các phản ứng của Việt Nam sẽ là phép thử lớn và hiệu quả hơn nhiều, nó cho Bắc Kinh thấy được khả năng sẵn sàng đáp trả khi có khiêu khích, khả năng triển khai các lực lương răn đe, cũng như liệu rằng chúng ta có thực sự quyết tâm trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình hay không.
Lần “ra khơi” này là một đội tàu cá lớn hơn rất nhiều so với tại bãi cạn Scarborough, có cả “tàu mẹ” và cánh phóng viên-báo chí, tính chất của cuộc đối đầu này đã được đẩy lên cao hơn. Nếu Việt Nam có bất cứ phản ứng nào trên thực địa, dù là nhỏ nhất, cũng sẽ được ghi nhận và chuyển về ngay lập tức. Tính chất căng thẳng sẽ được đẩy lên cao độ, chắc chắn Trung Quốc sẽ có những biện pháp mạnh mẽ và có phần liều lĩnh. Hải giám chắc chắn sẽ xuất hiện, không sớm hay muộn, và khi đó báo hiệu cho thấy căng thẳng đã dâng cao đến mức nguy hiểm. Việc sử dụng các tàu cá dân sự sẽ là một khó khăn không nhỏ cho Viêt Nam trong quá trình đối phó.
Nếu quá tay, Trung Quốc có thể lại hô hào rằng Việt Nam sử dụng vũ lực “đe dọa” đến “các quyền hợp pháp của Trung Quốc”, một chất xúc tác cho những hành động ngang ngược, liều lĩnh hơn nữa, và là chất xúc tác cho “chủ nghĩa dân tộc” ở Trung Quốc được dịp bùng lên mạnh mẽ. Điều này hoàn toàn có lợi cho Trung Quốc khi họ có những cái cớ cần thiết để thực hiện các “tính toán” của mình. Trên thực địa, khi Bắc Kinh có thể dùng sức mạnh để khống chế vùng biển quanh Trường Sa; trên bàn đàm phán, khi họ có thể cáo buộc Việt Nam không tuân thủ “các nguyên tắc luật pháp quốc tế” khi tranh chấp với Trung Quốc. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới các vòng đàm phán về COC đang sắp sửa diễn ra.
Một lần nữa chiến thuật sử dụng “chủ quyền thực địa” làm bàn đạp cho thế yếu về pháp lý của Trung Quốc cần được đánh động cho dư luận thế giới.
Vũ Thành Công-Nguyễn Thế Phương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét