Không để nhóm lợi ích trì hoãn
Nhận nhiều ưu đãi, đặc quyền
nên tái cơ cấu động chạm trực tiếp đến lợi ích của các tập đoàn, doanh nghiệp
nhà nước. Cần những giải pháp mạnh để việc cổ phần hóa, thoái vốn ngoài ngành...
không bị trì hoãn và không gây thất thoát.
Không đợi sự tự giác
|
|
|
|
|
|
“Việc cổ
phần hóa DNNN phụ thuộc chủ yếu vào vấn đề lợi ích. Giai đoạn đầu, cổ
phần hóa không được mặn mà vì các DNNN sợ bị mất quyền lợi, ưu đãi. Nhưng
có giai đoạn, cổ phần hóa được tiến hành ào ào bởi những cá nhân, nhóm
lợi ích được hưởng lợi từ việc định giá tài sản, mua-bán, sở hữu cổ phần
cổ phiếu. Nhưng đến lúc này, quy định, điều kiện cổ phần hóa chặt chẽ hơn
nên họ lại quay sang bảo vệ các lợi ích cục bộ mà cơ chế, chính sách dành
cho các DNNN”.
|
|
|
|
|
Tiến sĩ Lê Đạt Chí
|
|
|
|
Lý do mà nhiều doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đưa ra cho
việc chậm trễ cổ phần hóa hầu hết là "thời điểm chưa thuận lợi". Cụ
thể, thị trường chứng khoán ảm đạm, khó thực hiện bán cổ phần hoặc nếu có bán
được, cũng phải bán rẻ, gây thất thoát vốn nhà nước. Tuy nhiên, lực cản lớn
nhất cho quá trình cổ phần hóa chính là chi phối của lợi ích cá nhân, lợi ích
nhóm đứng phía sau các DN này. Bởi những ưu đãi về vốn, về đất, về cơ chế
chính sách chắc chắn sẽ bị mất hoặc giảm đi khi thực hiện tái cơ cấu. Đó là
chưa kể, nếu làm rõ những lãi giả, lỗ thật; thất thoát vốn... ở nhiều tập
đoàn, tổng công ty thì không ít người sẽ bị truy cứu trách nhiệm. Đó mới là
lý do thật sự của việc trì hoãn tái cơ cấu DNNN.
Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội
Trương Trọng Nghĩa phân tích cổ phần hóa, thoái vốn ngoài ngành là động chạm
đến vấn đề lợi ích. Nên nếu để các tập đoàn, tổng công ty, DNNN tự làm, phải
có lợi họ mới làm. Trong trường hợp bất lợi, họ sẽ tìm mọi cách trì hoãn. Vì
vậy, khó trông đợi vào sự tự giác của các DN này mà Chính phủ phải vào cuộc.
Đây là lúc nhà nước, các bộ, ngành, các địa phương... phải sử dụng quyền lực
để "bắt" họ phải thực hiện. Ông Nghĩa khẳng định cổ phần hóa có
nhiều mục đích chứ không chỉ là bán được giá cao. Việc này cần thiết phải
được thực hiện ngay để nâng cao năng lực cho các DNNN. Có thể chúng ta không
bán được giá như mong đợi nhưng nếu thực sự vì lợi ích trung và dài hạn,
không thể trì hoãn vì bất cứ lý do gì.
Không đồng tình với lý do "sợ bán rẻ vốn nhà
nước", tiến sĩ Lê Đạt Chí, Trưởng bộ môn tài chính Đại học Kinh tế
TP.HCM, cho rằng giá là do thị trường quyết định. Theo quy trình, khi tiến
hành cổ phần hóa bất cứ DN nào đều có một công ty đứng ra bảo lãnh. Công ty
này "bao tiêu" đầu ra và có trách nhiệm giới thiệu DN với nhà đầu
tư. Vì họ ăn phí nên giá bán càng cao, phí thu càng nhiều nên họ sẽ làm mọi
cách để giá bán được tốt nhất. Nếu giá đã do thị trường quyết định thì không
thể nói là thất thoát. Theo ông Chí, vấn đề quan trọng nhất là "chống
ế" để đẩy nhanh cổ phần hóa. Sở dĩ các nhà đầu tư không mặn mà với việc
mua cổ phần, cổ phiếu của các DNNN vì việc niêm yết bị trì hoãn rất lâu khiến
họ bị chôn vốn và mất niềm tin. Vì vậy, phải có cam kết và thực hiện nghiêm
túc việc niêm yết ngay sau khi IPO (bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng) để tạo
thanh khoản cho cổ phiếu mà nhà đầu tư nắm giữ. Có vậy mới đẩy nhanh cổ phần
hóa DNNN được.
Trên thực tế, lý do "sợ bán rẻ vốn nhà nước" đã
đeo bám xuyên suốt quá trình cổ phần hóa DNNN trong nhiều năm nay nhưng
nguyên nhân thực sự như đã phân tích trên, là bảo vệ lợi ích, bảo vệ những
đặc quyền, đặc lợi của cá nhân, tổ chức, nhóm lợi ích được hưởng từ cơ chế,
chính sách dành cho các DN này. Nếu chúng ta vẫn chấp nhận các lý do ấy, cũng
có nghĩa là việc tái cơ cấu kinh tế bị ngưng lại.
Thoái vốn, dễ thất thoát
Một vấn đề quan trọng trong tái cấu trúc DNNN là thoái vốn
ngoài ngành. Những khoản đầu tư tay trái, đặc biệt là đầu tư vào tài chính, bất
động sản của các tập đoàn, tổng công ty nhất thiết phải được thoái vốn càng
sớm càng tốt. Tuy nhiên, thoái như thế nào, cơ chế định giá ra sao, ai mua -
ai bán... đều chưa có gì cụ thể nên việc chốt giá dễ dẫn đến nguy cơ thất thoát
vốn nhà nước, tạo cơ hội cho các nhóm lợi ích thu lợi lần 2. Lần đầu là khi
đầu tư, chuyện mua với giá 2 đồng nhưng trên hợp đồng chính thức ký là 4
đồng, khoản chênh lệch bỏ túi riêng là điều ai cũng biết. Còn tại thời điểm
này, mượn "áp lực" từ chủ trương thoái vốn, khả năng "bắt
tay" bán vốn nhà nước thấp hơn nhiều so với giá trị có thể bán được để
kiếm lợi hoàn toàn có thể xảy ra.
Tiến sĩ Lê Đạt Chí cho rằng để tránh trường hợp thất thoát
vốn nhà nước bằng các hình thức bắt tay chốt giá như nói trên, nên định giá
và bàn giao tất cả các khoản đầu tư ngoài ngành cho Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn nhà nước (SCIC). SCIC sẽ sắp xếp, cơ cấu, phân loại, đóng gói các
khoản tay trái này thành một danh mục đầu tư để bán dần. Như vậy vốn sẽ không
bị thất thoát. Trả lời câu hỏi về nguồn vốn để SCIC có thể thực hiện việc mua
hết các khoản đầu tư ngoài ngành có giá trị cực lớn hiện nay, ông Chí cho
rằng SCIC có thể chỉ trả 10% giá trị các khoản mua, còn lại phát hành trái
phiếu và bắt chính các DN này mua lại. Thông qua đó điều tiết vốn giữa các
đơn vị một cách hợp lý. Nếu một mình SCIC bị quá tải thì có thể thành lập các
công ty có chức năng tương tự hoặc các quỹ đầu tư của các địa phương để đảm
nhận phần việc này.
Ông Nguyễn Xuân Thành - Giám đốc chính
sách công, Chương trình giảng dạy Kinh tế Fulbright - cũng cho rằng bản thân
các DNNN đều công bố thoái vốn nhưng sau đó lại nói rằng chưa làm được ngay
vì thời điểm chưa thuận lợi. Nếu vậy, Nhà nước có thể thành lập ra một công
ty, mua lại toàn bộ các khoản đầu tư ngoài ngành. Chúng ta có sẵn một công ty
có thể thực hiện việc này là SCIC nên có thể tạm thời chuyển toàn bộ các
khoản đầu tư sang SCIC. Sau đó, lập ra lộ trình thoái vốn trong 3-5 năm để
việc thoái vốn không gây tác động lên thị trường. Nếu làm vậy, ngay lập tức các
DNNN sẽ được thoái vốn mà không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để trì hoãn.
Chủ trương, giải pháp để thoái vốn ngoài ngành, cổ phần
hóa DNNN đều đã có. Vấn đề còn lại phụ thuộc vào việc chúng ta có thực sự
quyết liệt tái cơ cấu các DNNN hay không.
|
Ông Nguyễn Hoàng Hải - Tổng thư ký
Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (Vafi): Thực hiện trong
vòng 1 tháng
Không thể viện dẫn lý do thị trường chứng khoán đang
ảm đạm mà trì hoãn việc cổ phần hóa (CPH) DNNN. Đây là ngụy biện bởi trong những
giai đoạn thị trường chứng khoán gặp khó khăn, nhiều DN lớn đã thực hiện
thành công việc CPH. Vấn đề ở đây là ban lãnh đạo DN đó có quyết tâm thực
hiện việc CPH hay không.
Nếu cho rằng việc thực hiện CPH mất nhiều thời gian
thì khoảng 1.000 DNNN hiện nay chỉ cần mất 1 tháng thực hiện chuyển đổi
sang công ty cổ phần bằng cách đăng ký lại giấy phép hoạt động, cho công đoàn
đứng 1 cổ phần, một tổ chức trong DN này nắm 1 cổ phần, số cổ phần còn lại
thuộc nhà nước. Việc chuyển DNNN sang công ty cổ phần (với 3 cổ đông) có cổ
đông đa số là nhà nước này sẽ giúp cho DN hoạt động hiệu quả hơn, tiền đề
cho tiến trình cải tổ DN sau này. Ở Việt Nam, DNNN có cổ phần 100% của nhà
nước nhưng ở nước ngoài, nhà nước nắm cổ phần khoảng 51% là DNNN. Khi trở
thành công ty cổ phần, các DN này có nhiệm vụ công khai tài chính minh bạch
và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Còn ở Việt Nam, dù đó
là tập đoàn đi nữa thì việc công khai, minh bạch báo cáo tài chính đã là
vấn đề.
Việc chuyển đổi sang công ty cổ phần yêu cầu DN nộp
tiền cổ tức cho nhà nước, công khai minh bạch tình hình tài chính. Theo
tính toán sơ bộ của chúng tôi, nếu thực hiện từ năm 2013 thì số cổ tức đóng
góp cho nhà nước sẽ khoảng từ 10 - 15% tổng thu ngân sách nhà nước.
T.Xuân (ghi)
Ông Lê Hoàng Anh - Giám đốc Quỹ
đầu tư Dragon Capital: Sợ mất quyền
Quá trình CPH DNNN của VN thời gian qua rất chậm. Sau
giai đoạn đỉnh điểm 2003-2006, việc CPH gần đây hầu như dừng lại. Năm 2011
và quý 1/2012 chỉ CPH được 6 DN. Thị trường chứng khoán suy giảm chắc chắn
là một nguyên nhân làm CPH chậm lại. Nhưng theo chúng tôi, còn nhiều nguyên
nhân khác như tâm lý ngại CPH, ngại minh bạch của lãnh đạo DN; cảm giác
“mất quyền” của các đơn vị chủ quản.
Đến nay rất nhiều DN trong danh mục công bố trước đây
vẫn chưa thực hiện CPH nhưng không thấy ai bị quy trách nhiệm gì cả. Như vậy,
rất cần quyết tâm chính trị từ Chính phủ, đi kèm với các chế tài rõ ràng.
Kế đến, cần thay đổi tư duy về DNNN và việc nhà nước điều tiết thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, việc nhà nước can thiệp, hoặc giao DN ABC
“điều tiết” là việc hết sức nên tránh. Cuối cùng, theo chúng tôi, chính phủ
cần đánh giá lại vai trò của cổ đông chiến lược nước ngoài.
Bán cổ phần cho cổ đông trong nước có thể cải thiện
quản trị và tính minh bạch của DN, nhưng không thể mang lại công nghệ mới
cho DN. Cổ đông chiến lược nước ngoài có thể làm được điều này. Chúng ta cần
nhiều DN nước ngoài như Samsung, mỗi tháng xuất khẩu 1 tỉ USD, hơn là các
“nắm đấm gỉ”chỉ mang lại nợ nần cho đất nước.
Chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn:
Ý chí quyết định
Chúng ta phải đặt câu hỏi tại sao cần CPH các DNNN.
Vì có thể nhận thấy rằng DNNN được hưởng nhiều ưu đãi hơn DN tư nhân nhưng nhiều
dịch vụ, sản phẩm cung ứng ra xã hội không bằng DN tư nhân. Như vậy tính
không hiệu quả là điều dễ thấy nhất ở DNNN. Vì vậy mục tiêu của việc CPH
không phải là kiếm lời mà để tăng tính hiệu quả của các DN này. Do đó việc
thị trường chứng khoán tăng hay giảm cũng sẽ không ảnh hưởng đến việc CPH
các DNNN.
Điều quan trọng nhất là ý chí của người có quyền
quyết định và người đang điều hành DNNN có muốn thực hiện CPH hay không?
Chúng ta cứ nhìn ra xung quanh tại sao nhiều nước đã thực hiện nhanh chóng việc
thoái vốn của nhà nước khỏi các DN.
Điều này không có gì khó nếu chúng ta đã quyết tâm
làm. Những vấn đề ví dụ như khó tìm đối tác chiến lược, e ngại bán giá thấp
sợ làm thất thoát vốn nhà nước chỉ là những lý do không xác đáng để làm chậm
quá trình CPH. Bởi thật sự đối tác chiến lược chỉ là lý thuyết. Theo tôi,
những DNNN sau khi đã được định giá kỹ thì cứ bán đúng giá toàn bộ phần vốn
muốn bán ra bên ngoài, thậm chí bán thấp hơn cho cán bộ nhân viên thì sẽ
đẩy nhanh việc CPH các DNNN.
Mai Phương (ghi)
Ông Nguyễn Đoan Hùng - Phó chủ
tịch Ủy ban Chứng khoán nhà nước: Chứng khoán khởi sắc thì CPH sẽ nhanh
Chúng tôi hiện đang triển khai nhiều giải pháp cả vĩ
mô lẫn kỹ thuật để thúc đẩy thị trường. Vừa qua đã đề xuất với NHNN làm ngân
hàng (NH) thanh toán chung cho thị trường, thay vì để duy nhất BIDV làm như
hiện nay, nhằm tăng tính tiện ích cho nhà đầu tư.
Tại Việt Nam rất nhiều NH bơm vốn cho
công ty chứng khoán, dẫn tới rủi ro lớn cho thị trường. Vừa rồi, phía Bộ
Tài chính kiến nghị phải thu dòng vốn này về, giảm bớt sự hỗ trợ vốn của
NHNN cho các công ty chứng khoán. Từ 1.7, Ủy ban tiến hành phân loại các
công ty thành 3 nhóm: kiểm soát đặc biệt, trung bình, khá - dựa trên báo
cáo tài chính 6 tháng, một năm.
Với những giải pháp mang tính kỹ thuật trên, cùng các
giải pháp đồng bộ khác, thị trường chứng khoán khởi sắc thì quá trình CPH,
thoái vốn cũng sẽ diễn ra nhanh hơn, thuận lợi hơn.
Ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn - Thứ trưởng
Bộ Tài chính: Thoái vốn cực kỳ khó khăn
Vừa rồi kết quả quá trình CPH còn khiêm tốn, nhưng
chúng tôi đã xây dựng quy định về quản lý tài chính đối với quá trình CPH
và quản lý tài chính đối với quỹ tài chính xử lý sau CPH; những quy định liên
quan đến định giá, bán và quản trị vốn nhà nước còn lại.
Về thoái vốn, Bộ Tài chính đã xây dựng đề án chung để
trình Chính phủ. Nhưng quan trọng để thoái vốn được thì 30 tập đoàn, TCT phải
xây dựng đề án tái cấu trúc của mình, vì mỗi loại có một đặc điểm, loại
hình khác nhau, và xây dựng đề án, kế hoạch và phương pháp thoái vốn. Ở đây
có hai vấn đề, nếu nóng ruột vội vàng thì dễ nhảy từ việc này sang việc
khác.
Thứ hai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay
cực kỳ khó khăn với công tác thoái vốn. Vì vậy khi thoái vốn phải đảm bảo nguyên
tắc: thứ nhất theo pháp luật, thứ hai thị trường, thứ ba hiệu quả và thứ tư
tránh thất thoát, lãng phí, tiêu cực. Thậm chí, có thể có nguyên tắc thứ 5
trong quá trình thoái vốn nếu trước kia có gì không đúng thì phải xử lý.
Anh Vũ
(ghi)
|
(TNO) Nguyên Hằng
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét