"Chúng
ta đang làm Luật Đặc khu với tư duy con nhà nghèo"
Cập nhật lúc 16:00
TS. Nguyễn Đức Thành
cho rằng chúng ta đang làm Luật Đặc khu với một tư duy khá nông dân, con nhà
nghèo nên mới sa đà vào các tiểu tiết. Nếu chúng ta tạo ra được một môi
trường kinh doanh, thể chế tốt thì phượng hoàng sẽ về, mang theo trứng và tự
nó xây tổ cho mình, tự nhiên chúng ta sẽ có cơ sở tốt.
Quốc hội đang họp bàn về những vấn đề
quan trọng của đất nước trong đó có Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt
(Luật Đặc khu). Nếu suôn sẻ, ngày 15.6 tới Dự thảo Luật này sẽ được
thông qua với mục tiêu hình thành các khu kinh tế đặc biệt, tạo động lực mới
cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước nhanh và bền vững.
Trao đổi với "Góc nhìn chuyên
gia" của Dân Việt, PGS.TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu
kinh tế và chính sách (VEPR), trường ĐHKT- ĐHQGHN, đã bày tỏ sự thất vọng vì
đã không tạo được bước đột phá về tư duy và thể chế trong Dự thảo Luật
Đặc khu.
![]()
PGS.TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên
cứu kinh tế và chính sách (VEPR), trường ĐHKT- ĐHQGHN.
"Nếu chỉ
thử nghiệm thì cần gì tới 3 đặc khu cùng một lúc?"
Cho
tới thời điểm hiện tại Dự thảo Luật Đặc khu Kinh tế đã chọn 3 địa điểm là Vân
Đồn – Bắc Vân Phong – Phú Quốc, dường như để đại diện cho 3 miền Bắc – Trung
– Nam. Theo ông, việc lựa chọn này có phù hợp và mang lại hiệu quả?
Bản chất đặc khu kinh tế chỉ thuần tuý
mang tính kinh tế đã không còn là “mode” của xã hội hiện đại, vì kỷ nguyên
toàn cầu hóa đã đi một bước rất xa kể từ những năm 1980. Như Trung Quốc, vào
thập niên 1980 họ mở 4 đặc khu ven biển, nhưng chỉ có Thâm Quyến được coi là
thành công. Ngoài ra, có rất, rất nhiều đặc khu đã thất bại trên thế giới. Có
thể nói, số đặc khu thành công thì đếm trên đầu ngón tay, còn số đặc khu
thất bại và đã bị quên lãng thì nhiều lên tới hàng trăm.
Đặc khu trong thời kỳ hiện nay, với bối
cảnh Việt Nam, chỉ có giá trị khi là đặc khu hành chính, có sự đột phá
về thể chế-hành chính, từ đó dẫn tới sự thành công về kinh tế.
Có một điều thú vị ít người để ý, là
nếu nhìn trên bình diện khu vực và thế giới, có thể nói cuộc Đổi Mới của Việt
Nam bắt đầu tăng tốc từ đầu thập niên 1990 chính là biến cả Việt Nam thành
một đặc khu kinh tế. Chính sách mở cửa mạnh mẽ của chúng ta lúc đó nếu đem so
với các nước còn đi chậm hơn trong khu vực như Myanmar, Campuchia, v.v...
chính là đã biến Việt Nam thành một đặc khu trong khu vực.
Với chính sách mở cửa đó, qua 30 năm có
thể thấy là đã đạt được nhiều thành công. Tuy nhiên, sự phát triển của Việt
Nam hiện nay đã đi tới giới hạn và tăng trưởng kinh tế dường như chỉ được đến
đấy. Vì thế, Việt Nam cần một cú huých, một cuộc cải cách nữa để tiếp tục
phát triển. Một cú hích là cần thiết, nhưng chúng ta phải làm thế nào?
Cuộc cải cách lần này cần có sư bứt phá
về thể chế, về đổi mới chính trị, về cơ chế, v.v… rõ ràng không còn đơn
giản như ngày xưa, chứa đựng nhiều khó khăn và cả rủi ro về mặt chính trị.
Nhìn vào môi trường chính trị lúc này, nhìn vào những “vùng cấm” còn rất
nhiều, có nhiều luật tiến bộ như Luật về Hội, Luật Biểu tình còn chưa được
thông qua, thì đó là bằng chứng cho thấy chúng ta chưa sẵn sàng có cuộc cải
cách lần thứ hai. Do đó, mới có ý tưởng xây dựng các đặc khu để thử nghiệm
cải cách từng bước.
Như vậy, cái tinh thần của “Đặc khu
hành chính – kinh tế đặc biệt” nằm trong bối cảnh chúng ta không dám có một
cuộc thay đổi lớn về mặt thể chế trong cả nước, thấy là quá khó, quá rủi ro,
thì lập ra những vùng đặc biệt để có thể đưa yếu tố mới vào thử nghiệm trong
môi trường con người Việt Nam, điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam xem có vấp
phải vấn đề gì không. Nếu thử nghiệm thành công có thể mở rộng lan tỏa trong
cả nước. Vì vậy, đột phá về thể chế là yêu cầu tiên quyết được đặt ra cho đặc
khu.
Với bản chất thử nghiệm thể chế như
vậy, theo tôi chỉ cần một đặc khu để thể nghiệm, chứ không nhất thiết phải
cần tới ba đặc khu cùng một lúc.
Ông có thể nói
rõ hơn về đề xuất này?
Hiện nay chúng ta vẫn bị luẩn quẩn
trong tư duy ngành nghề ở đặc khu. Tôi đề xuất nên chăng đề ra một luật khung
rất chung về đặc khu, không cần rõ là làm ở đâu. Vùng nào muốn làm đặc khu
thì phải đáp ứng đủ yêu cầu của cái khung đó, đòng thời đề xuất các phương án
đột phá nhất. Nó giống như việc thi hoa hậu, trong hàng trăm, hàng nghìn cô
gái mới chọn ra một cô hoa hậu, không phải như hiện nay là chỉ định, dù có cô
chưa sẵn sàng cũng được làm hoa hậu, thì tự nhiên tiêu chí hoa hậu sẽ giảm đi
nhiều.
Chúng ta có thể hiểu đơn giản là thay
vì “chỉ định thầu” thì chúng ta sẽ “đấu thầu đặc khu”.
Khi Luật khung đã đưa ra những yêu cầu,
tiêu chí cơ bản để là “đặc khu” thì các vùng sẽ dựa vào các yêu cầu đó để đưa
ra phương án triển khai, cam kết tài chính. Tỉnh nào, vùng nào đưa được đề
xuất khả thi, tích kiệm ngân sách nhất, có thể chế sáng tạo, cam kết mạnh mẽ
nhất, đề xuất được các phương án hấp dẫn hơn về kinh doanh thì tỉnh đó, vùng
đó được chọn làm đặc khu. Nó giống như cuộc thi kén rể của Vua Hùng vậy.
Nhà nước có quyền quyết định, và việc
này cũng tạo độc lực cho sự sáng tạo, nỗ lực từ các địa phương muốn xây dựng
đặc khu. Các cam kết được chọn sau đó sẽ luật hoá và cả nước có thể tập trung
nguồn lực cho một anh làm đặc khu cho thành công, rồi khi thành công rồi sẽ
triển khai mô hình này ở các vùng khác. Giống như là nhà nghèo, nên tập trung
để một anh đi học đại học trước, sau đó quay lại cứu các em đi sau, chứ tiền
đâu mà nuôi mấy anh một lúc mà chỉ học cao đẳng làng nhàng.
"Đừng dùng
tư duy một anh nông phu đi mơ hộ giấc mơ của các nhà tư bản"
Hiện
nay còn rất nhiều tranh cãi về việc làm gì ở đặc khu để có hiệu quả, để thành
tổ gọi Phượng Hoàng về. Ông có ý kiến hay đề xuất gì về nội dung này?
Trong khi xã hội rất lo ngại, thấm chí
giận dữ với khả năng cho thuê đất tới 99 năm, tôi thì không coi đó
là việc lớn lắm. Tôi chỉ nghĩ đây là tư duy mang tính mặc cảm, thiếu cái
gì thì muốn bù đắp thôi. Ví dụ như trước đây tôi ở cái nhà bé, kín bưng bưng,
thiếu cửa sổ. Đến khi tôi xây nhà mới, thì tôi xây một cái nhà to mở rất
nhiều cửa sổ. Xong rồi tôi thấy là nhiều cửa sổ quá cũng không hay.
Cho nên Việt Nam mình vốn không có sự
ổn định về quyền sở hữu đất đai, nên cứ nghĩ là cứ tăng cái quyền sử dụng ấy
lên thật dài thì thành ra hấp dẫn. Nhưng thực ra không hẳn là như thế. Vấn đề
là anh thực sự có một thể chế tốt, một môi trường kinh doanh thực sự tốt, thì
đặc khu mới là nơi hấp dẫn. Thành công hay thất bại chỉ cần sau 10-15 năm là
rõ rồi.
Sự thành công này sẽ thể hiện ở đâu?
Theo tôi là biểu hiện ở chỗ đặc khu trở thành nơi thu hút các nhân tài, các
nhà đầu tư đổ về. Để làm như thế, đừng vội nghĩ tới những điều kiện ràng buộc
về các khoản vốn to, mà hãy nghĩ tới ý tưởng kinh doanh, mô hình kinh doanh,
môi trường kinh doanh mà trong đó những tài năng, những nhà đầu tư được tự do
phát triển. Như thế trong 30 năm, 50 hay 70 năm thì 1 tỷ hay 100 tỷ USD không
còn quan trọng.
![]()
Phú Quốc trước ngày trở
thành đặc khu kinh tế (Ảnh: IT)
Để thu hút được nhân tài, để thành công
chúng ta cần thể chế ổn định, bền vững, luật pháp rõ ràng, dễ thực hiện. Thể
chế ấy sẽ làm cho hoạt động sản xuất ở đó ổn định, công bằng, hội tụ được tài
năng, nguồn lực, tạo động lực phát triển bền vững.
Người tài họ cần gì? Họ có năng lực
kinh doanh, tìm kiếm thu nhập xứng đáng với công sức, họ có vốn, nhưng họ
cũng đòi hỏi phải được tự do, không gian tự do để sáng tạo, và họ phải dịch
chuyển linh hoạt được cả bản thân lẫn nguồn lực.
Cụ thể, một yêu cầu với các đặc khu là
phải dịch chuyển lao động tự do để thu hút tài năng, kể cả trong và ngoài
nước. Mô hình này đòi hỏi phải tiên tiến nhất thế giới. Sẽ không còn hạn chế
ngày, giờ với thẻ Visa với người nước ngoài. Nhà đầu tư cũng yêu cầu tự do
tôn giáo, tín ngưỡng, tư tưởng, văn hoá… Rồi ngôn ngữ chính trong đặc khu nên
là ngôn ngữ nào? Có nên là tiếng Anh luôn hay không?
Theo tôi, đó là những vấn đề phải bàn
khi nói tới xây dựng đặc khu, không nên “cắm đầu” vào nghĩ xem dự án đầu tư
này vài chục hay vài tỷ USD, rồi nên định hướng kinh doanh gì ở đặc khu. Cái
đó không phải là tiên quyết. Nếu chúng ta tạo ra được một môi trường kinh
doanh, thể chế tốt thì phượng hoàng sẽ về, mang theo trứng và tự nó xây tổ
cho mình, tự nhiên chúng ta sẽ có cơ sở tốt.
Dự thảo Luật Đặc khu hiện nay làm tôi
khá thất vọng khi sa vào nhiều tiểu tiết, thiếu trọng tâm, gây ra những tranh
cãi bất lợi không cần thiết.
Vậy
theo ông, Luật Đặc khu kinh tế cần những yếu tố gì để không còn tiểu tiết,
vụn vặt?
Chúng ta có thể đưa ra một khung luật
chung, tạo ra những tiền đề đơn giản nhưng rõ ràng thế nào là một đặc khu,
sau đó triển khai tiếp các vấn đề cụ thể ở các văn bản pháp quy khác hoặc
luật mới. Luật tốt hơn hết là không cần quá dài, quy định những điều cơ bản
để tạo động lực cho địa phương, tạo độ mở tư duy cho toàn dân đóng góp thêm.
Trong đó cũng không cần biết cho thuê đất 99 năm hay 50 năm; không cần Casino
hay tự do hóa mại dâm. Bởi đó không phải là những vấn đề quá lớn.
Một nhà đầu tư thực sự có tầm nhìn thì
họ sẽ quan tâm là trong đặc khu có nguồn cung lao động chất lượng cao hay
không, có phải là nơi ổn định, đáng tin cậy để mở các phòng thí nghiệm lớn,
đầu tư xây dưng các cơ sở lớn về công nghệ và công nghiệp hay không.
Muốn biến đặc khu thành một cái tổ
phượng hoàng, thì cũng chính là xây một căn phòng tiện nghi, an toàn, mà nhà
đầu tư lớn có thể thoải mái ngủ trong đó và nằm mơ những giấc mơ của họ, thực
thi ước mơ của họ. Họ sẽ tự đề ra kế hoạch để biến khát vọng, ước mơ đó thành
hiện thực. Chứ chúng ta đừng nghĩ hộ, mơ hộ nhà đầu tư khi mà giấc mơ của
chúng ta còn bị giới hạn bởi nhận thức non yếu, bị đè nát bởi những lợi ích
tủn mủn. Nhà đầu tư quốc tế, họ giỏi hơn, mạnh mẽ hơn chúng ta, và chúng ta
cần những người như vậy. Như thế, Luật đặc khu cần có một cách tư duy với độ
mở rộng hơn, tinh thần cao hơn, xa hơn khi nhìn về đặc khu.
Xin cám ơn ông!
(Theo Dân Việt)
Nguyệt San
|
Trang
▼
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét