|
TIẾNG NƯỚC
TÔI
Hôn phu, hôn thê là người chồng, người vợ u mê
Cập nhật lúc 11:01
LTS: Khảo sát
tần suất sử dụng tiếng Hán Việt cũng như những bất cập trong việc dùng từ Hán
Việt trên truyền thông hiện nay, TS Lê Thị Bích Hồng (giảng viên cao cấp
Trường đại học Sân khấu - điện ảnh Hà Nội) gửi đến Tuổi Trẻ bài
viết này.
![]()
Lớp từ Hán Việt thường có sắc thái
trang trọng, trong khi lớp từ thuần Việt lại bình dân và sinh động hơn. Nhiều
từ Hán Việt đã được Việt hóa thông dụng, có từ đã biến đổi ý nghĩa.
Khi
từ gốc Hán được Việt hóa
Nhiều người dùng mượn hình thức ngữ âm
của từ Hán rồi thay đổi nghĩa, thu hẹp nghĩa, cho thêm nghĩa mới.
Ví dụ, “phương phi” nghĩa Hán là “hoa
cỏ thơm tho”, người Việt hiểu sang “béo tốt”.
Tương
tự, “khôi ngô” nghĩa “to lớn, cao to” sang nghĩa “mặt mũi sáng sủa, dễ coi”;
“bồi hồi” nghĩa “đi đi lại lại” sang nghĩa “sự xúc động”; “đinh ninh” nghĩa
“dặn dò” sang nghĩa “tin chắc, yên chí”; “lang bạt kỳ hồ” nghĩa “lúng túng,
quanh quẩn tại chỗ” sang nghĩa “lang thang khắp nơi khắp chốn” (Theo Đặng Đức
Siêu, Ngữ văn Hán Nôm)...
Từ “khuyến mãi” nay dùng thành “khuyến
mại”. Cụm từ “kích thích nhu cầu tiêu dùng” rút thành “kích cầu” - từ này
đang dần được chấp nhận. Từ “yêu cầu” là một động từ. Nhưng hiện từ “yêu cầu”
hay được dùng với nghĩa danh từ. Ví dụ: “mục đích yêu cầu”...
Từ
“đáo để” trong tiếng Hán có nghĩa là “đến đáy”, nhưng khi đi vào tiếng Việt
nó lại có nghĩa là cách cư xử không đẹp, khiến người ta khó gần; hoặc có khi
nó được dùng làm tiếng đệm nhằm nhấn mạnh ý nghĩa của tính từ giống như các
từ chỉ mức độ “vô cùng”, “rất”, “lắm”... (Theo Hữu Đạt, Sai, đúng trong cách dùng từ Hán Việt và vấn đề "giải
pháp").
Trên thực tế, các từ gốc Hán khi du
nhập vào tiếng Việt hầu hết đã bị biến đổi do áp lực của cấu trúc tiếng Việt.
Chỉ
sau một thời gian, bản chất Hán của các từ này đã bị tiếng Việt đồng hóa để
không còn cái vẻ nguyên dạng ban đầu. Hoặc là nó bị biến đổi về ngữ âm, hoặc
là nó bị biến đổi về ngữ nghĩa theo cách tri nhận mới của người Việt Nam qua
cái vỏ âm thanh ban đầu. Hoặc nhiều tiếng Hán Việt bị hiểu sai; lâu dần, cái
nghĩa hiểu sai được phổ biến hơn nghĩa tinh xác và do đó được công nhận là
nghĩa đúng (Theo Bùi Đức Tịnh, Ngữ pháp Việt Nam giản dị và thực dụng).
Những
lỗi thường gặp
Nhiều trường hợp người sử dụng chưa nắm
được nghĩa của từ Hán Việt, khiến từ trở nên vô nghĩa hoặc dẫn đến sai trầm
trọng.
Dùng từ sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt: nhầm lẫn giữa
hai từ “khả năng” - năng lực của con người có thể làm được việc gì đó với
“khả dĩ”. Từ “quá trình” là đoạn đường đã đi qua: “quá” là đã qua, “trình” là
đoạn đường. Nếu viết từ “quá trình” dùng ở thì tương lai “quá trình thực hiện
công tác sắp tới của tôi sẽ rất thuận lợi” là sai.
Có thể dùng từ “tiến trình” cho câu
trên. Ta có thể viết “hôn lễ” (lễ cưới), “hôn phối” (lấy nhau). Nhưng nếu nói
hôn phu, hôn thê, hôn quân lại mang nghĩa là người chồng u mê, người vợ u mê,
nhà vua u mê...
Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt
(tiếng Nôm): chữ
“góa phụ” trong sách báo chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Tính từ “góa” là
tiếng Nôm không thể đặt trước danh từ “phụ”. Nên gọi là gái góa (toàn Nôm),
hay “quả phụ” (toàn Hán Việt).
Từ “nữ nhà báo” thường được dùng trên
các phương tiện truyền thông. Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm
xuôi là “nhà báo nữ”, hoặc dùng ba từ Hán Việt là “nữ ký giả” hay “nữ phóng
viên”.
Lạm dụng và dùng sai từ Hán Việt khá phổ biến khi kết hợp từ “tặc”
(ăn cướp) với các từ khác như: tôm tặc, vàng
tặc, cà phê tặc, đinh tặc... để chỉ những tên ăn trộm.
Cách dùng này sai về ngữ pháp (từ đơn
thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép), sai
về nghĩa: tặc là ăn cướp, đạo () là ăn trộm. Thay vì sính dùng từ Hán Việt,
ta có thể nói là: bọn ăn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê...
Hiện từ “đinh tặc” đang được nhiều báo
chí dùng với tần suất lớn với nghĩa chỉ bọn rải đinh trên đường, trong khi
“đinh tặc” chỉ có nghĩa là bọn ăn cướp đinh, chỉ bọn rải đinh trên đường là
sai nghĩa...
Nhiều từ Hán Việt hiểu sai nên viết sai: từ “tham quan”
nghĩa là đi chơi để ngắm cảnh thay từ “thăm quan”; “chấp bút” viết thành
“chắp bút”, “lặp lại” viết thành “lập lại”, “trùng lặp” viết thành “trùng
lắp”, “hằng ngày” viết thành “hàng ngày”, “thập niên” viết thành “thập kỷ”,
“điểm yếu” thành “yếu điểm”...
Tất nhiên, khi xem xét tới tính sai,
đúng của việc dùng từ Hán Việt, việc đối chiếu từ nguyên là việc làm có phần
cứng nhắc, dễ dẫn đến việc làm mất đi tính năng động của từ Hán Việt với tư
cách là một sự sáng tạo rất linh hoạt của người Việt Nam.
Từ Hán Việt tuy có nguồn gốc từ tiếng
Hán, nhưng nó đích thị hoàn toàn là của người Việt Nam, được dùng theo cách
của người Việt Nam. Nên hiểu đúng và dùng đúng ngữ nghĩa của từ Hán Việt là
chúng ta đang góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, bổ sung, làm
giàu thêm vốn từ vựng phong phú, nối dài nét đẹp văn hóa và chữ viết của
người Việt.
Vai trò của báo chí trong chuẩn hóa và
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt có ý nghĩa quan trọng. Bởi tiếng Việt là
một trong số gần 50 ngôn ngữ đang được sử dụng rộng rãi nhất trái đất. Không
phải tự dưng tiếng Việt có thể tồn tại và phát triển, trong khi đã có hàng
ngàn ngôn ngữ và chữ viết của các dân tộc bị hủy diệt theo dòng chảy phát
triển của nhân loại.
(Theo Tuổi trẻ) LÊ THỊ BÍCH HỒNG
|
Trang
▼

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét