Bắc Kinh đầu tư lớn cho kế hoạch “cưỡng đoạt chủ quyền”
Cập nhật lúc 07:31
Trung Quốc đang ráo riết tận dụng sức mạnh khoa học công nghệ để
củng cố các tuyên bố “cưỡng đoạt chủ quyền” của mình tại Biển Đông.
Tính lưỡng dụng
của các dự án khoa học công nghệ, một mặt giúp Bắc Kinh khẳng định sức mạnh
đang lên của một cường quốc biển, mặt khác giúp đảm bảo sự kiểm soát của quân
đội tại các vùng biển tranh chấp.
Việc nước này
tuyên bố sẽ xây dựng một phòng thí nghiệm sâu 3.000 mét dưới mực nước biển là
ví dụ mới nhất chứng minh cho nhận định trên. Hiện, khung thời gian để tiến
hành dự án, bản vẽ thiết kế chi tiết, hay kinh phí của dự án vẫn chưa được
tiết lộ.
Đây là một dự
án đầy tham vọng. Ngoài mục đích tìm kiếm khoáng sản, phòng thí nghiệm còn có
thể sử dụng vào mục đích quân sự như theo dõi tàu ngầm hay thiết lập các kênh
liên lạc quân sự.
Các công nghệ
biển sâu thường mang tính lưỡng dụng cao. Ngoài việc được sử dụng cho nghiên
cứu khoa học, các hệ thống thông tin liên lạc dưới nước hay các loại cảm biến
đáy biển đóng vai trò quan trọng trong an ninh quốc phòng. Thời bình, chúng
được sử dụng để theo dõi các tàu ngầm hay tàu chiến của nước ngoài. Trong
thời chiến, chúng đóng vai trò kết nối hệ thống thông tin, hoàn thiện hệ
thống chỉ huy kiểm soát, giám sát cũng như trinh sát…
Lĩnh vực nghiên
cứu và phát triển, đặc biệt là các dự án liên quan đến biển, đang được Trung
Quốc chú trọng đầu tư. Trình độ khoa học công nghệ hiện tại, cũng như nguồn
kinh phí dồi dào, giúp Trung Quốc theo đuổi nhiều cách tiếp cận khác nhau để
tạo lợi thế trong các tranh chấp chủ quyền biển. Bắc Kinh chi ngân sách cho nghiên
cứu và phát triển nói chung vào khoảng 216 tỷ USD trong năm 2015. Trong khi
ngân sách quốc phòng cùng năm vào khoảng 145 tỷ USD.
Các công nghệ
mới trong khảo cổ học dưới nước giúp Trung Quốc trong việc tìm kiếm hay thăm
dò cổ vật dưới đáy biển. Các cổ vật được “tìm thấy”, ở Hoàng Sa hay Trường
Sa, sẽ được Trung Quốc sử dụng như các bằng chứng chủ quyền.
Một số dự án
đáng chú ý khác khác bao gồm tàu lặn Giao Long năm 2012 đã đạt kỷ lục lặn sâu
hơn 7.000 mét so với mực nước biển. Tàu lặn này có thể được sử dụng cho nhiều
mục đích khác nhau như phát hiện thuỷ lôi, vẽ bản đồ đáy biển với độ chính
xác cao, trinh sát, giám sát biển, thu thập sinh khối…
Cũng trong
những năm vừa qua, Trung Quốc tập trung quan tâm chế tạo các thiết bị không
người lái dưới nước (UUVs). Các lĩnh vực tập trung nghiên cứu bao gồm hệ
thống nhận diện hình ảnh và các hệ thống thông tin liên lạc dưới nước. UUVs
hay USVs, cũng như tất cả các hệ thống không người lái khác, được nhận xét là
tương lai của chiến tranh. Dĩ nhiên, tuỳ vào chiến thuật và chiến lược sử
dụng mà các loại UUVs hay USVs có vai trò khác nhau, song tầm quan trọng của
chúng trong quân sự đang ngày càng gia tăng.
Kế hoạch đáng
chú ý nhất gần đây là việc Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu quốc gia Trung Quốc
(CSSC), một trong hai tập đoàn đóng tàu quốc doanh lớn nhất đất nước, tiết lộ
chi tiết về kế hoạch xây dựng “Dự án Vạn lý trường thành dưới dước
(Underwater Great Wall Project).
Đầu tư từ tàu
lặn đến các thiết bị không người lái, từ khảo cổ học dưới nước tới xây dựng
trung tâm nghiên cứu dưới đáy biển, Trung Quốc cho thấy Trung Quốc không
ngừng củng cố tham vọng “cường quốc biển”.
Môi trường quốc
tế hiện đại khiến các cường quốc khó có thể sử dụng vũ lực một cách tuỳ tiện.
Để đạt được các mục tiêu đối ngoại và đối nội, các cường quốc mới nổi như
Trung Quốc sử dụng các biện pháp “mềm” hơn, thông qua công nghệ là một cách
tiếp cận.
Trong bối cảnh
Trung Quốc muốn chuyển mình từ cường quốc lục địa sang cường quốc hải dương,
yếu tố công nghệ càng đóng vai trò to lớn hơn. Tuy vậy, luôn cần có một độ
tỉnh táo nhất định với cả hai chiều hướng. Một là xu hướng dân sự hay khoa
học, mà hầu hết đều là các dự án lưỡng dụng phục vụ cho các mục tiêu chiếm
đoạt chủ quyền. Xu hướng này đến nay càng rõ ràng và đo đếm được qua các
phương tiện kỹ thuật-hỗ trợ khác nhau.
Hai là khoảng
cách giữa các tuyên bố và thật chất do phía Trung Quốc công bố. Công nghệ
quân sự của Trung Quốc hiện tại đang tụt hậu 20 năm so với Hoa Kỳ, và 20 năm
trong thế giới công nghệ hiện nay là một khoảng cách thật sự lớn, lẫn khoảng
cách xét về mặt chất lượng. Một điểm cũng quan trọng không kém: công
nghệ dưới đáy biển là một đầu tư rất đắt tiền. Hơn một tuần sau khi có những
thông tin ban đầu, các ý kiến mang tính nghi ngờ về dự án phòng thí nghiệm
sâu 3.000 mét dưới mực nước biển đều tập trung ở tính “xa xỉ” của dự án.
Cần cân bằng
được hai yếu tố này sẽ giúp có một cái nhìn đa chiều và khách quan hơn trong
các đánh giá về tình hình thực địa tại Biển Đông sắp tới.
(Theo
TuanVietNam)
Nguyễn Thế Phương, Nghiên cứu viên cộng tác thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS),
Đại học KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM.
* Bài
viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phản ánh quan điểm của SCIS.
|
Trang
▼
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét