‘Thế giới
ngầm’ Quảng Ninh bị tác động mạnh vì lũ
Cập nhật lúc 07:52
Trận lũ lụt vừa qua được coi là thảm họa với
hoạt động sản xuất và đời sống người dân. Một sự tê liệt chưa từng xảy ra với
ngành công nghiệp mỏ.
LTS: Những ngày vừa qua, nhiều địa phương như Cao Bằng, Điện Biên,
Thanh Hóa, đặc biệt là Quảng Ninh đã gánh chịu đợt lũ lụt nặng nề. Trong một
bài viết, nhà báo Ngô Mai Phong cho rằng những tổn thất Quảng Ninh đang gánh
chịu, mà điển hình là hai thành phố Hạ Long và Cẩm Phả là hệ quả của một
chuỗi sai lầm tích tụ từ hơn hai thập niên trở lại đây. Đó là sự không “cầm
cương” được quy hoạch; không kiểm soát được tốc độ đô thị hóa; tàn phá trơ
trụi rừng phòng hộ và rừng ngập mặn; các công trình công nghiệp chồng lấn,
hủy hoại và thôn tính nhau... gói gọn trong cụm từ: “Tham vọng phát triển
nóng”.
Thêm
nữa, Quảng Ninh được biết tới là mỏ than lớn nhất nước và tập trung nhiều
ngành kinh tế: du lịch, khoáng sản, kinh tế cửa biển… Tác động của trận thiên
tai sẽ không dừng lại ở nhà đổ người mất, mà vấn đề môi trường, công nghiệp
mỏ… sau lũ là rất lớn. Quảng Ninh nói riêng và các tỉnh ngập lũ nói chung sẽ
đối mặt và rút ra bài học gì sau sự việc này?
Tuần
Việt Nam tổ chức tọa đàm với các chuyên gia ngành than, môi trường và hóa học
nhằm phân tích tình hình và đưa ra các khuyến nghị: TS. Nguyễn Tiến Chỉnh, chuyên gia kinh tế- kỹ
thuật mỏ, nguyên Trưởng ban Khoa học Công nghệ và Chiến lược phát triển của
Tập đoàn Vinacomin; TS Ngô Đức Lâm, nguyên Cục trưởng Cục An
toàn Kỹ thuật, Bộ Công thương; ông Đỗ Thanh Bái, chuyên gia an toàn hóa chất
và môi trường, giám đốc Trung tâm Bảo vệ môi trường và an toàn hóa
chất (Viện Hóa học Công nghiệp).
Thảm họa chưa từng xảy ra
Nhà báo Hoàng Hường: Thưa ông Lâm, trong tầm nhìn
ngắn hạn, ông có thể đánh giá sơ bộ những thiệt hại mà trận lũ lụt vừa rồi
gây ra cho Quảng Ninh và ngành công nghiệp mỏ?
Ông Ngô Đức Lâm: Trận lũ lụt vừa qua được coi là thảm
họa với hoạt động sản xuất và đời sống người dân. Về thiệt hại thì UBND tỉnh
Quảng Ninh và tập đoàn mỏ VN sẽ có đánh giá chi tiết. Số lượng ban đầu như
tôi biết, riêng ở tỉnh này có 17 người chết, trong đó 13 người chết do bị vùi
lấp, 8 vạn công nhân mỏ phải đình chỉ, và khoảng 3 vạn công nhân sẽ có khả
năng không có việc làm. Một sự tê liệt chưa từng xảy ra với ngành công nghiệp
mỏ. Còn có những đánh giá về lâu dài cũng là vấn đề mà chúng ta cần phải
nghiên cứu.
Hoàng Hường: Thưa ông Chỉnh, như ông Lâm vừa nói đây là một sự việc chưa từng
xảy ra cho ngành công nghiệp mỏ. Ông có thể nói sơ qua về tình trạng khai
thác ở Quảng Ninh và ngành than nói chung?
Ông Nguyễn Tiến Chỉnh: Sản lượng than khai thác ở Quảng Ninh
chiếm trên 90% sản lượng than VN. Khai thác lộ thiên hiện có 5 mỏ lộ thiên
lớn có công suất trên 2 triệu tấn, là các mỏ Cọc Sáu, Cao Sơn, Đèo Nai, Hà
Tu, Núi Béo, 15 mỏ lộ thiên trung bình có công suất 100 đến 700 ngàn tấn/năm
và có một số lộ vỉa công suất dưới 100 ngàn tấn/năm. Khai thác hầm lò có
khoảng 30 mỏ, trong đó có 9 mỏ có công suất trên một triệu tấn/năm.
Sản lượng khai thác trong năm 2014 khoảng 44 triệu tấn
than nguyên khai, tương đương 39 triệu tấn than thương phẩm, tiêu thụ khoảng
39 triệu tấn, trong đó chủ yếu là tiêu thụ trong nước 33 triệu tấn, xuất khẩu
năm 2014 chỉ 6 triệu tấn.
Công nghệ khai thác than có hai phương pháp chủ yếu: lộ
thiên và hầm lò. Trong khai thác hầm lò hiện nay ở độ sâu âm 350m. Khai thác
hầm lò trước kia chủ yếu chống bằng gỗ. Trong 10 năm gần trở lại đây ngành
than chuyển sang cột chống thủy lực, giá thủy lực di động, giá khung thủy lực
và một số lò trợ đã áp dụng hệ thống cơ giới hóa đồng bộ với dàn chống và
combai khai thác than.
Tuy năng suất lò cơ giới hóa đồng bộ chưa đạt như mong
muốn, nhưng đối với các lò trợ giá khung thủy lực đã nâng được công suất lò
trợ và công suất mỏ. Trước kia công suất lò trợ chỉ có 4 -5 vạn tấn/năm, đến
nay đã đạt 20 vạn tấn/năm. Năng suất của người lao động đạt từ 5 đến 8
tấn/công. Điều kiện lao động được cải thiện và đảm bảo an toàn.
Về khai thác than lộ thiên, muốn khai thác than phải phải
bóc lớp đất đá, hiện nay hệ số bóc là 10 m3/tấn than. Có nghĩa là để lấy được
một tấn than nguyên khai ta phải bóc 10m khối đất đá nguyên khối đưa ra khỏi
mỏ. Để bóc đất đá theo quy trình công nghệ phải khoan nổ mìn, xúc bốc và vận
chuyển đất đá ra bãi thải.
Công nghệ khai thác lộ thiên hiện nay được trang bị cơ
giới hóa cao với máy khoan thủy lực đường kính lớn, máy xúc thủy lực gầu
ngược dung tích 12m3, ô tô trọng tải 95 tấn. Hiện nay đổ thải đất đá chủ yếu
là dùng bãi thải ngoài. Đây là vấn đề nóng hiện nay.
Tỉ trọng sản lượng lộ thiên khoảng 48%. Với sản lượng hiện
khoảng 20 triệu tấn than nguyên khai/năm, phải bóc vận chuyển, đổ thải 200
triệu mét khối đất đá nguyên khối/năm và diện tích bãi thải để chứa đất đá là
rất lớn.
Hoàng Hường:Đấy có phải là một trong
những nguyên nhân chính trong thảm hoạ vừa qua, người dân Quảng Ninh không
chỉ chịu lũ lụt mà còn bị đất đá và bùn than ụp xuống. Có phải từ những bãi
thải đó không?
Ông Nguyễn Tiến Chỉnh: Quy trình sản xuất than lộ thiên phải
có thiết kế bãi thải. Độ cao ở mức cho phép là +300. Nguyên tắc thiết kế bãi
thải an toàn là phân tầng, có đê kè chắn và rãnh thoát nước.
Tuy nhiên trận lũ vừa qua vượt quá tầm tính toán thiết kế
và dự báo. Nguyên tắc là trong thiết kế đã tính đến lượng mưa hàng năm khoảng
300, 400mm, nhưng đợt mưa vừa rồi phải 500 đến 800 thậm chí trên 1000mm.
Những thiên tai như vậy không lường được hết.
"Rất nhiều nguy cơ"
Hoàng Hường: Khi nhắc đến công nghiệp mỏ, người ta cũng nói nhiều tới vấn đề
ô nhiễm, đặc biệt lũ lụt sẽ cuốn theo những hóa chất công nghiệp. Nó tác động
thế nào tới môi trường và sức khỏe con người?
Ông Đỗ Thanh Bái: Công nghệ khai thác mỏ nói chung, và
khai thác than nói riêng là một trong những nguồn gây ô nhiễm và tiềm ẩn nguy
cơ, có thể coi là một thảm họa tác động lâu dài đối với môi trường và sức
khỏe.
So với khai thác lộ thiên, khai
thác hầm lò có thể có tác động ít hơn, nhưng thực ra cũng tạo tác động khác,
thí dụ như sụt lún, phát thải khí metan. Ở Việt
Nhưng vấn đề đáng quan tâm ở Quảng Ninh chính là khai thác
lộ thiên, tạo ra những vấn đề lớn về môi trường và sức khỏe, không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới.
Thứ
nhất, khai thác lộ
thiên làm biến đổi địa mạo. Điều này rất quan trọng với Quảng Ninh vì liên
quan nhiều đến cảnh quan của vùng đất du lịch. Đồng thời, sự thay đổi
này cũng gây ra những xung đột cho những mục tiêu phát triển khác. Ở
Quảng Ninh là thủy sản, phát triển đô thị, đặc biệt là du lịch.
Thứ
hai, vấn đề ô nhiễm:
khai thác lộ thiên gây ra ô nhiễm không khí, tạo ra tiếng nổ, tiếng ồn, khói
bụi. Nhưng đáng lưu tâm nhất là ô nhiễm nguồn nước và những chất thải
rắn. Mỏ than thường chứa một lượng lưu huỳnh, khi đó cũng như một số
các mỏ chứa sulfua khác chính là nguồn gốc tạo ra nước thải mỏ axit. Vì
lưu huỳnh hoặc sulfua có trong than do bị phong hóa sẽ chuyển từ dạng sulfur
sang dạng sulfit hay sulfat và làm cho nước thải mang tính axit. Nước thải mỏ
thông thường có pH axit làm cho kim loại nói chung, đặc biệt kim loại nặng
nằm ở trong mỏ hay lòng đất sẽ bị hòa tan và theo nước mỏ chảy vào môi
trường, gây nhiễm kim loại đối với đất và nước.
Bình thường sự ô nhiễm này có thể là nhẹ do nằm
dưới ngưỡng chịu tải của môi trường. Tuy nhiên khi gặp thảm họa như vừa rồi
thì lượng nước thải
chứa axit này rất
lớn và thải ra trong thời gian rất nhanh, dẫn đến hậu quả là làm kim loại
nặng từ những bãi thải và ngay trong than đã bị rửa trôi ra môi trường với
một lượng rất lớn và rất nhanh.
Nguy hiểm ở chỗ chúng ta không
chuẩn bị trước cho những điều này. Trong các mỏ than, thông thường các kim
loại nặng thường có
là thủy ngân (Hg),
As, chì, cadmi, kẽm, Mg… và nhiều kim loại khác nữa, trong đó nhiều kim loại
tác động xấu đến sức khỏe của người dân và đặc biệt môi trường nước biển. Tuy
nhiên, mức độ có thể khác nhau, phụ thuộc vào các hàm lượng kim loại nặng ở
trong khu mỏ.
Thứ
ba, rủi ro như anh
Chỉnh đã nói là hệ số bóc đất đào thải lớn. Một lượng đất đá thải và một
lượng than trong quá trình sơ chế hoặc lưu trữ ở một khu vực cao nhất định so
với môi trường bên ngoài có thể đổ ập xuống nếu quá trình thiết kế không đủ
độ an toàn. Điều đấy đã xảy ra ở Quảng Ninh. Một khối lượng lớn đất đá, bùn
ập xuống sẽ dẫn đến hậu quả là nhiều diện tích đất nông nghiệp, thủy sản và
khu dân cư, và đặc biệt là môi trường biển sẽ bị tác động lớn.
Nước thải, bùn thải do sự cố vừa qua xâm
nhập vào môi trường nước có hàm lượng chất rắn lơ lửng rất cao. Trong đó có
nhiều hạt rất mịn dẫn đến các tác động nghiêm trọng đến chất lượng nước cho
sinh hoạt cũng như cho thủy sinh, kể cả môi trường nước biển và nước cho nuôi
trồng thủy sản.
Thứ
tư, khi hoạt động
khai thác mỏ nói chung và than nói riêng trên một địa bàn có nhiều hoạt động
sẽ là mối tiềm ẩn các nguy cơ xung đột từ các nhóm lợi ích khác nhau. Tôi tâm
đắc với ý kiến của nhà báo Ngô Mai Phong: quy hoạch đang thiếu một tầm nhìn
tổng thể.
Theo Tuần Việt
|
Trang
▼


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét