Giai đoạn Việt Nam mới gia nhập WTO, đã có một lượng tiền
không nhỏ dưới dạng “vốn nóng” được rót vào, lập tức gây ra các hiện tượng
bong bóng tài sản, tác động tiêu cực đến thị trường bất động sản, chứng
khoán, hệ thống doanh nghiệp.
Sau khi gia nhập Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), kinh tế Việt Nam sẽ đối mặt với những thay đổi
lớn nào?
Đây là vấn đề đặt ra trong một báo cáo được thực hiện bởi nhóm các chuyên gia
kinh tế và nghiên cứu viên đến từ Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách
(VEPR), phối hợp với Đại học Nagoya (Nhật bản).
Báo cáo dự tính, sau khi gia nhập TPP, so với các nước thành viên khác thuộc
nhóm này, Việt Nam là quốc gia có mức thay đổi GDP lớn nhất tính theo phần
trăm. Cụ thể, tỷ lệ phần trăm GDP thay đổi của Việt Nam được dự
báo sẽ dao động trong ngưỡng từ 0,11% cho đến cao nhất là 2,04%.
Ngoài ra, mức tăng đầu tư của Việt Nam
cũng được đánh giá sẽ thuộc hàng mạnh nhất trong các nước (từ 6,86% đến
30,62%), gần tương đương mức tăng của Nhật và gần gấp đôi mức tăng của Australia, Malaysia và Mỹ (tính theo giá
trị).
Về cấu trúc của nền kinh tế, Việt Nam sẽ chứng kiến sự thu hẹp của
các ngành kém lợi thế hoặc lợi thế đang suy giảm (như thịt lợn, gà, sữa, lâm
nghiệp, sản phẩm gỗ, khai khoáng, công nghiệp).
Ngược lại, nền kinh tế sẽ có sự mở rộng cả về sản lượng lẫn lao động trong
các ngành có lợi thế (đặc biệt là dệt may, da giày, dịch vụ công và xây
dựng).
Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, báo cáo nhận định hoạt động thương mại của
Việt Nam
với các nước TPP sẽ tăng lên. Trong khi đó, đối với các nước ngoài TPP, Việt Nam có xu
hướng tăng cường nhập khẩu và giảm nhẹ xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng dệt may và da giày của Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng mạnh, trong
khi tổng xuất khẩu giảm nhẹ.
Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc VEPR, khi cơ cấu dịch chuyển, kinh tế
Việt Nam cần sự điều chỉnh nhanh chóng về lao động, cụ thể là dịch chuyển lao
động từ nông thôn ra thành thị, lao động không có kỹ năng sang có kỹ năng.
Nếu không làm được điều này, cũng có nghĩa là đánh mất cơ hội phát triển.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
sẽ tăng mạnh, tuy nhiên, cần tránh những hậu quả như đã xảy ra thời hậu WTO.
Sau khi Việt Nam
mới gia nhập WTO, đầu tư tăng rất mạnh. Một lượng tiền hề nhỏ dưới dạng “vốn
nóng” được rót vào, lập tức gây ra các hiện tượng bong bóng tài sản, tác động
tiêu cực đến thị trường bất động sản, chứng khoán, hệ thống doanh nghiệp...
Ông Thành nói, nếu không hấp thu được vốn FDI bẳng chuyển giao công nghệ, sản
xuất, FDI lập tức sẽ được chuyển vào nền kinh tế tài chính, tiền tệ. Giai
đoạn hậu WTO, khi tiền vào quá nhiều, giá nhiều loại tài sản đã tăng vọt, chỉ
có lợi cho một số người nắm tài sản, nhưng không có ý nghĩa gì với sản xuất.
Còn theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, luồng vốn FDI được dự báo tăng mạnh
thời hậu TPP là một điều tốt, thế nhưng cũng cần đặt câu hỏi, thực ra người
lao động sẽ được hưởng lợi gì, trong khi giá lao động hiện tại mới chỉ đáp
ứng được 60% nhu cầu sống cơ bản.
Hậu TPP, cần tránh tình trạng FDI ảnh hưởng xấu đến môi trường, trong khi đời
sống người lao động không có gì cải thiện. Quan điểm này cũng được chia sẻ
bởi bà Nguyễn Hoàng Phượng, điều phối viên chính sách thuộc Trung tâm Con
người và Thiên nhiên.
Theo bà Phượng, không nên chỉ nhìn vào những tác động ngắn hạn của TPP lên
nền kinh tế, mà cần phải có cái nhìn dài hạn rằng TPP sẽ ảnh hưởng thế nào
đến môi trường. Phần lớn vốn đầu tư FDI vào Việt Nam vẫn hướng vào những nguồn tài
nguyên thiên nhiên của đất nước như tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng.
Vậy trong thời gian ngắn hạn, nếu vốn FDI lại tiếp tục vào ồ ạt, chúng ta sẽ
có chính sách gì để bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên?
(Theo VnEconomy) Thu An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét