11:45
|
Luận bàn của Đông La:
NGUYỄN TRUNG VÀ SỨ MỆNH CHỮ NGHĨA
Nhà
văn, nhà sư phạm văn chương uyên
bác và tinh tế Paux-tov-xki, trong cuốn Bông hồng vàng, cuốn sách gối đầu giường của tôi khi
còn bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa của đền đài văn chương, đã viết về nghề văn:
“Nghề văn không phải là một nghề thủ công và cũng không phải là một thứ công việc. Nghề văn là sứ mệnh… Từ "sứ mệnh"
có chung một gốc với từ "tiếng gọi".
Không ai hô hào con người đi làm
chuyện vặt. Người ta chỉ kêu gọi con người làm
tròn bổn phận và thực hiện những nhiệm vụ khó khăn.
Vậy thì cái gì thôi thúc nhà văn đến với cái lao
động tuyệt mỹ nhưng đôi khi cay cực kia?
Trước tiên là tiếng gọi của trái tim. Tiếng gọi của lương tâm và
lòng tin ở tương lai không cho phép nhà văn đích
thực sống trên trái đất như một bông hoa điếc và không truyền đạt hết mình cho đồng loại tất cả cái
phong phú của tư tưởng và
tình cảm đang tràn ngập chính tâm hồn nhà văn”.
Cuộc đời tôi thật kỳ lạ, tôi đi
học một ngành
khoa học để kiếm sống, hoàn
toàn không nghĩ đến văn chương,
nhưng số mệnh lại dẫn tôi đến với nó. Chuyện viết lách là lao tâm khổ tứ, cực nhọc, mà gần như “không được gì”,
cũng lại chẳng có gì
ràng buộc nên ý định bỏ viết luôn thường trực trong tôi. Nhưng do đủ thứ tác động, bạn viết thì nói không viết là “phí lắm đấy”, đặc biệt luôn có một cái gì
đó thôi thúc, mỗi khi gặp chuyện sai
trái thì không sao mà im lặng được, khiến tôi phải viết ra, thế là không bỏ viết được. Phải chăng sự thôi
thúc đó chính là cái mà Paux-tov-xki gọi là “sứ mệnh”?
Khi gặp Nguyễn Trung,
tôi thấy ông cũng có nét như vậy. Ông thường gởi những bài viết tâm đắc, giàu
suy tư của ông về thế sự cho tôi, trong đó có bài Trách nhiệm lịch sử. Bài này ông viết cuối năm
2009, góp ý kiến cho Đại hội Đảng XI. Thực lòng
tôi chỉ liếc qua vì
là những điều tôi cũng đã biết. Riêng đoạn kết thì tôi chú ý hơn khi ông
viết:
“Chắc chắn các
nhóm lợi ích và sự bảo thủ sẽ có thể khép tội những đánh
giá, đề nghị… là muốn thủ tiêu Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa,
là tiếp giáo cho bè lũ phản động... Xin
thảo luận thẳng thắn để tìm ra lẽ phải… Tôi biết nói lên những điều trong
bài này là đứng giữa nhiều làn đạn. Người này có
thể sẽ lên án tôi là tội đồ phản động, … Người nọ có thể sẽ phỉ báng tôi là kẻ ngu trung, đến giờ phút này
mà còn lo níu kéo Đảng, cứu Đảng!... Kẻ khác có thể nói: Già rồi mà còn ngu, còn háo danh… Song tôi
đã được đi tới nhiều vùng miền của đất nước. Có thể nói tôi thấy hầu như không có một làng xã nào ở nước ta là
không có nghĩa trang các liệt sỹ các thời kháng chiến cứu nước – trong đó có không ít mộ các đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Tôi
nghĩ, ở tuổi 75, ông
viết như vậy là thực lòng,
và phải chăng sự viết lách của ông cũng do sự thôi
thúc của một sứ mệnh? Chính
vì vậy, khi viết 2 bài về ông, tôi
đã đặt tựa đề tưởng không
gì trang trọng hơn thế: “Có một tấm lòng”; “Dòng đời- dòng tâm huyết”! Vậy mà giờ đây, ông lại có tên
trong “Danh sách 72”, ông lại viết bài
cho: “dư luận viên lề phải” là “xuyên tạc lịch sử”,
cho Liên Xô tan rã là do chiến thắng của nền dân chủ chứ không phải do họ phản bội Chủ nghĩa
Mác-Lê Nin. Ông luôn kêu gọi thực hiện dân chủ nhưng khi người ta nói
ngược ý ông, với những lý lẽ gần như không lý lẽ gì, ông
đã cho người ta là “xuyên tạc”. Vì vậy tôi buộc phải xem kỹ lại “những dòng
tâm huyết” của ông
trong bài Trách nhiệm lịch sử ngày nào, cái cơ sở lý luận cho những thái độ và hành động của ông hôm nay.
***
Bài Trách nhiệm lịch sử là bài rất dài, trên 50 trang, Nguyễn Trung
viết rất kỳ
công, ông chỉ ra trách nhiệm lịch sử của ĐCSVN
trước giai đoạn mới. Tôi chỉ phân tích một số ý quan trọng nhất trong đó mà thôi.
Về đối nội, Nguyễn Trung
cho cần phải “phát huy đoàn kết, hòa hợp và hòa
giải dân tộc”.
Tôi
không hiểu sao đến giờ mà Nguyễn Trung vẫn còn nói
đến chuyện này, trong khi xã hội VN hoàn
toàn không còn khái niệm ta địch. Trong hai cơ quan tôi
làm, những người chế độ cũ xem chừng họ “biết thân biết phận”, khéo quan hệ, nên cuối cùng lại thành đạt hơn những người từ chiến trường về “có máu
công thần” như chúng
tôi. Trong gia đình, chú ruột vợ tôi là cha tuyên úy, bị tù 13
năm, đã thành cha sở nhà thờ Chí Hòa rất lớn, khi
chết chủ tế đám tang là Hồng y, có
lãnh đạo quận Tân
Bình tham dự. Khi đưa tang, mấy ngã tư đoạn gần nhà thờ có công
an gác cho xe chạy thông
tuyến; khi chôn được chôn riêng ở góc sân
nhà thờ nơi chôn
rau cắt rốn của ông. Tiếp theo, cậu em ruột vợ cũng thành linh mục, mới được giáo
dân bên Mỹ mời sang chơi, mới về hôm qua,
khoe ảnh chụp khắp nước Mỹ. Thế hệ con cháu thì tùy khả năng và
ý thích, hoàn toàn tự do lựa chọn làm
công chức hoặc không,
du học hoặc không,
định cư nước ngoài hoặc không.
Ngoài xã hội, ai cũng thấy đã có sự trở về của rất nhiều người thuộc chế độ cũ, từ tầng lớp lãnh đạo như Nguyễn Cao Kỳ
đến các trí thức, văn nghệ sĩ như GS Trần Chung Ngọc, Nhạc sĩ Phạm Duy, Nhạc sĩ Đức Huy,
các ca sĩ Tuấn Ngọc, Hương Lan,
Tuấn Vũ,
Elvis Phương, danh hài Hoài Linh, nhà báo Phương Hùng, v.v… cùng hàng trăm ngàn bà con Việt kiều về nước trong mỗi dịp tết. Đặc biệt có người còn xin
ở lại luôn như hai nhạc sĩ Phạm Duy, Đức Huy và
v.v… Hoài Linh, Đức Huy xuất hiện thường xuyên trên tivi đến nỗi tưởng hai người chưa từng đi đâu
cả. Nhìn Đức Huy vui vẻ hóm hỉnh hôm nay có ai ngờ anh đã từng vỡ mộng trên đất Mỹ với cuộc sống bươn chải căng thẳng. Anh
tâm sự, từ năm 4 tuổi đã phải sống lang
thang nên “lì lợm chưa bao giờ biết khóc”, vậy mà khi
vào nhà thờ xếp hàng xin ăn “lần đầu tiên trong đời tôi đã khóc, mà khóc thê thảm, khóc rống lên vì tủi phận… những hình ảnh diễn ra trước mắt làm tôi
không thể dằn lòng được. Đói quá, họ cướp giật của nhau, cả đám loạn lên, như không còn là đồng loại của nhau nữa”. Chính vì vậy, anh
nói khi trở về như được đi về phía mặt trời mọc.Không
phải theo nghĩa văn vẻ lãng mạn mà rất thực tế, anh đã phải chấp nhận rời xa con cái để “tôi phải làm cái
gì đó để vừa cứu mình,
mà lại lo được cho các con, đó là về Việt
Vậy Nguyễn Trung
còn đòi hòa hợp thì hòa hợp cái gì? Phải chăng
còn phải làm vừa lòng những người chống Cộng (thực ra là
chống đất nước) cực đoan,
phải lộn ngược lịch sử, lộn ngược những chuẩn mực của đạo lý, của thiện ác, của tốt, xấu, v.v…
Sự hòa hợp chỉ có thể có được không chỉ từ thái độ không
phân biệt đối xử của “bên thắng cuộc” mà còn phải từ sự “biết điều” của “Bên
thua cuộc”. Muốn vậy, phải hiểu biết toàn diện lịch sử, rồi trên nền tảng của tri thức và đạo lý,
trên thực tế cuộc sống đang
diễn ra trên đất nước, những người “thua cuộc” phải biết phá chấp, biết thoát ra khỏi những mặc cảm của những người bại trận, thoát
khỏi những định kiến “mất nước” sai lầm. Làm
sao hòa hợp cho được khi còn
hận thù ngút trời, khi cứ cho mình
mới là chính nghĩa, trong khi thực tế cái chế độ mà họ sống trong
đó lãnh tụ người thì bị giết bởi đảo chính, người thì
tuyên bố tại vị chỉ vì viện trợ, người thì tự thấy chỉ là con rối, là bù nhìn?
Phải chăng theo ý Nguyễn Trung
hòa hợp là phải đa đảng, trong
đó có đảng của Việt Nam Cộng hòa?
Bên cạnh việc kêu gọi sự hòa hợp trong đối nội như trên,
Nguyễn Trung cũng nhấn mạnh về việc cần phải từ bỏ Ý thức hệtrong
đối ngoại. Ông
cho: “những thất bại nghiêm trọng của nền ngoại giao Việt
Trong
những khúc quanh của lịch sử, khi Mỹ chưa bỏ cấm vận, các
nhà lãnh đạo Việt Nam từng phải dựa vào sức mạnh của “phe”, của “ý thức hệ” là lẽ tự nhiên.
Trong tình trạng như ngàn cân treo sợi tóc, đất nước ta đã vượt qua được những khúc quanh đó như có phép mầu, để đến được những ngày
hôm nay. Bây giờ mà Nguyễn Trung còn suy nghĩ như trên thì
thật là lạc lậu, là
không theo kịp tiến trình của đất nước. Trong
quá khứ chúng ta không thể tay trắng mà chống ngoại xâm, giải phóng đất nước, nên buộc phải theo “phe” để có được sự giúp đỡ. Nhưng hiện tại hoàn
toàn khác. Ý thức hệ không còn là chuyện phân
chia chiến tuyến mà chỉ là lý tưởng phấn đấu. Việc nước ta theo “ý thức hệ” nào là chuyện riêng,
không ảnh hưởng gì đến ai. Vì thế chúng ta
đã thực hiện được một Nền Ngoại Giao đa phương đại thành công, với các
tiêu chí cụ thể, dựa trên
triết lý ngoại giao: làm bạn với tất cả vì lợi ích đôi
bên. Từ các nước có quan hệ truyền thống như Trung Quốc, như Nga đến các nước cựu thù như Pháp, Nhật, Mỹ, chúng ta đều có mối quan
hệ tốt đẹp. Không chỉ quan hệ suông mà còn là đô-la, là kinh tế. Viện trợ ODA của Nhật luôn dẫn đầu và ở mức mấy tỉ USD. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của ta. Mới đây quan hệ Việt-Mỹ đã được nâng lên mức “toàn diện”. Vì vậy Nguyễn Trung nói “nền ngoại giao Việt Nam thất bại do mang nặng tính ý
thức hệ”
xem chừng là “xuyên tạc”.
Có tất cả những quan điểm như vậy đơn giản là vì bởi Nguyễn Trung
cho rằng:
“Điều đặc biệt nguy hiểm là quá trình “đảng hóa” đang được coi là phương thức lãnh đạo toàn diện và tối ưu”; “Đảng đang từng giờ từng ngày đẩy lùi Đảng từ vị trí đảng lãnh đạo xuống vị trí đảng cai trị”. Để rồi đến những ngày hôm nay ông có tên trong danh sách “lật pháp”, đòi xóa bỏ sự hiến định quyền lãnh đạo của Đảng, từ bỏ Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, thực hiện đa đảng, tách quân đội, công
an ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Tóm lại, ông muốn xóa trắng lịch sử, không dựa trên thực tiễn xã hội Việt Nam, trở thành một thứ con chiên mới của giáo điều cũ là “nhà nước pháp
quyền”.
Có
điều, là một cán bộ cao cấp của Đảng nhưng ông đã nhận định sai về nội tình của Đảng mình khi ông cho sự lãnh đạo là “Đảng hóa”, giống như những người chống đối cho là “toàn trị”. Theo tôi nếu sự lãnh đạo mà “Đảng hóa” được, “toàn trị” được thì quá
tốt. Đơn giản là vì Đảng là một tập thể rất rộng không
phải là một cá nhân. ĐCSVN với truyền thống, với lý tưởng, cương lĩnh, điều lệ như thế, thì dân Việt còn gì
hạnh phúc hơn khi được “toàn
trị”. Bởi mục tiêu của Đảng là đưa VN trở thành một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh kia mà; mỗi cán bộ đảng viên như Bác Hồ nói là “công bộc của dân” kia mà.
Tiếc là không phải có tình
trạng như Nguyễn Trung và những người chống đối nói, không phải có tình
trạng “Đảng hóa” mà thực tế đang có một sự phân hóa trong Đảng. Như chính TBT
Nguyễn Phú Trọng nói: “đã có giai cấp trong Đảng”. Trong quá trình phân hóa đó đã tạo ra những nhóm
tha hóa, nhất là những người trong
các lĩnh vực liên quan đến vật chất, tiền bạc, đã tạo nên tầng lớp mà dư luận gọi là “tư bản đỏ”.
Nước ta còn yếu kém mọi mặt, kể cả trình độ chính trị, nghĩa là cái cơ chế đang vận hành xã
hội còn nhiều yếu kém,
nên Đảng không thể “toàn trị” được. Chính vậy mới có tình trạng như Chủ tịch Trương Tấn Sang nói: “Đụng đâu vướng đó”. Việc tăng
quyền tự chủ cho các lĩnh vực kinh tế nhưng lại thiếu các biện pháp giám sát, vô hình chung đã tạo ra những vương quốc nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng. Có thế mới có chuyện người ta thoải mái mua
tầu cũ, ụ nổi sét gỉ về “trưng bầy” chơi!
Vì vậy cần phải nhận ra những khiếm khuyết, sai
trái để bổ sung, sửa chữa, để Đảng vững mạnh, tốt đẹp như xưa, thực hiện được sứ mệnh cao cả, đưa đất nước đến dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Điều này dễ hơn, thực tế hơn và tốt đẹp hơn ngàn vạn lần chuyện Nguyễn Trung
và những người cùng hội cùng thuyền, nhân cơ hội đảng yếu, đòi đa
đảng, thay Hiến Pháp, chẳng khác
gì giết Đảng của mình, đưa đất nước đến xáo trộn, bần hàn!
Ta
hãy xem cụ thể giải pháp của Nguyễn Trung:
“Chìa khoá để xoay chuyển là thiết lập một thể chế chính trị dân chủ… phát huy khả năng, bản lĩnh và vai trò của từng cá
nhân cho lợi ích của chính mình và lợi ích của đất nước. Sớm muộn phương thức này tất yếu sẽ dẫn tới đa nguyên, đa đảng”.
Có điều khi viết như vậy, Nguyễn Trung cũng lại rất biết con đường đa nguyên
rất dễ dẫn tới “máu, nước mắt và hỗn loạn”. Ông cũng thừa nhận “sự thật là nhiều quốc gia độc lập, có chế độ đa
nguyên đa đảng, mà từ nhiều thập kỷ nay chưa làm sao thành công được trên con đường phát triển của dân chủ, thậm chí có
những nước đang rơi vào hỗn loạn”. Theo ông: “nhất thiết nên loại ngay từ đầu … con đường dân chủ đa nguyên hỗn loạn tìm đường đi lên thể chế dân chủ của phát
triển”; “con đường dân chủ của học hỏi và phát
triển”.
Nhưng học hỏi cái gì? Từ ai?
Bởi với Thái
Lan thì ông cho là thứ đa
nguyên “xanh, đỏ, vàng”, với các
nhóm “dưa hấu” , “cà chua”, “dưa gang”… “từ nhiều thập kỷ nay thao túng Thái Lan, đứng trên luật pháp”.
Với Nga ông cho kinh nghiệm “shock
therapy” (liệu pháp sốc) và các cuộc “cách mạng da
cam, da quýt” tại một số nước trong
Liên bang Xô viết cũ là “những bài học cay đắng”.
Với Trung Quốc ông cho
là một sự “phát triển chủ nghĩa tư bản gần như với bất kỳ giá
nào”, dựa trên sự “bóc lột?” công sức của khoảng 800 triệu dân lao
động, “lợi dụng được triệt để bối cảnh thế giới ngày
nay” với một chính
sách quốc gia “khôn ngoan đến tàn bạo”, trên cơ sở “hy
sinh lợi ích các nước khác”.
Còn với “các
nước phát triển nhất” Nguyễn Trung
thấy “cũng muôn vàn khó khăn và không hiếm thất bại, ngay cả ở nước Mỹ hiện nay!” Ông cho biết từ hai chục năm nay chính phủ Mỹ đã bị các giới nghiên cứu khác
nhau trong nước phê phán gay gắt, coi
chính sách của Washington D. C. (Chính
quyền Mỹ) phá hoại giấc mơ Mỹ từ A đến Z; đang
biến nước Mỹ thành con nợ lớn nhất thế giới!
Vậy không có nơi nào,
không có ai trên thế giới để ta học hỏi cả. Có chăng chỉ trông đợi vào Nguyễn Trung mà thôi. Có điều ông
cũng lại chưa nghĩ
ra, hoặc đã nghĩ ra nhưng còn đang giấu?!
Hơn nữa một đất nước mà trình độ người dân làm chủ bản thân và gia đình còn khó sao làm chủ đất nước? Đến tầng lớp trí thức kể cả Nguyễn Trung
còn sai tùm lum thì liệu dân chủ có phải là phép tiên cho VN?
Nhớ lại hồi tôi viết trên
Talawas có một cây viết Việt kiều Pháp là Phong Uyên, cũng là một người chống đối ghê ghớm. Ông này không thích tôi viết những ý “bảo vệ chế độ”, nhưng lại rất mê tôi viết những ý phản biện, từng nói đọc tôi
sung sướng như được uống rượu vang Pháp được định niên hạn
(millésime), bảo có bài “đáng được
"millésimé năm heo vàng"”. Phong Uyên
cũng từng phản bác
hoàn toàn bài Trách nhiệm lịch sử của Nguyễn Trung, cho những giải pháp của Nguyễn
Trung là “chỉ nhắc đi nhắc lại những khẩu hiệu sáo rỗng”.
Điều này theo tôi là rất nguy hiểm. Bởi với một việc con con mà ta chưa biết cách làm cụ thể cũng không thể làm được, huống hồ việc vạch đường chỉ lối cho cả một đất nước. Nếu còn mù mờ thì khác
gì cỗ xe đất nước đang vượt đèo hiểm trở lại chạy theo người dẫn đường mờ mắt, làm sao xe không rớt xuống vực thẳm! Đáng ngại hơn nữa, việc đòi đa đảng của một nhóm người chỉ nhân
danh dân chủ chứ chẳng phải vì dân
vì nước gì, thực chất họ chỉ muốn đòi chia quyền lãnh đạo của Đảng hiện tại mà thôi!
Ngay
từ cái bài tôi “đánh” Phạm Toàn để bảo vệ Nguyễn Trung trên Talawas, khi ông viết: “Chỉ cần Đảng đặt lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc lên trên hết, phát huy tự do dân chủ trong Đảng để phát huy
tự do dân chủ trong cả nước”; “đau thấu nỗi đau của dân tộc, khát vọng da diết khát vọng của dân tộc”, tôi cũng đã e ngại cái
chuyện ông “hô khẩu hiệu” rồi, nên đã
viết:
“Riêng
ý cuối cùng rất quan trọng này, những yếu tố đảm bảo cho phẩm chất của cán bộ đảng viên,
ý của Nguyễn Trung quá đúng rồi, nhưng nó mới chỉ là những điều kiện đạo đức, những mong ước lý tưởng, những nguyên
lý chung, chứ ông chưa đưa ra được một cách thức nào đó để có thể biến những điều đẹp như mơ ấy thành
hiện thực, để mỗi người có chức có quyền có thể thực hiện thoải mái việc “đặt lợi ích quốc gia lên trên hết”, dễ dàng
“đau thấu nỗi đau dân tộc”, mà không phải gồng mình
hoặc ép xác như những ông
thánh mới có thể thực hiện được”.
Tôi
đã nói ra hộ ông cái giải pháp này:
“Thời chiến tranh,
trước vấn đề còn mất, sống chết, tất cả mọi mặt của cuộc sống đều trở thành nhỏ bé, người ta rất dễ quên
mình vì nghĩa lớn, nhiều lãnh tụ có phẩm chất thánh
nhân, nhiều chiến sĩ có phẩm chất anh
hùng là điều hoàn
toàn có thực. Cuộc sống trong
hòa bình ngược lại. Trước cái chết con người mạnh mẽ bao nhiêu thì trước sức mạnh vật chất con người lại yếu đuối bấy nhiêu! Ranh giới giữa những việc làm
chính đáng và bất chính
vô cùng mong manh. Tiền bất chính lại rớt vào túi
dễ như nước chảy xuôi, trái lại, kiếm được đồng tiền chính
đáng phải đổ mồ hôi sôi
nước mắt. Khi làm điều bất minh người ta dễ tự nhủ, mọi người đều làm thế thì tội gì ta không làm. Đó chính là cái cơ chế dẫn đến quốc nạn tham
nhũng. Sự tham
nhũng hiện tại đã trở thành có phương pháp, có quy trình, có liên minh, liên kết chặt chẽ, lan rộng khắp trên mọi lĩnh vực đời sống. Trước nạn giặc nội xâm vô
cùng lớn này, vũ khí chống lại là pháp
luật lại không có sức công phá, bởi những người thực thi
pháp luật cũng nằm trong chính cái cơ chế đó. Vậy cái bài toán này có lời giải không?
Có lẽ lại phải đọc lại Mác
thôi, con người ta vật chất không đầy đủ thì ý thức sao tốt được. Vậy phải có biện pháp sao đó để biến tất cả những “lậu”, những “bổng lộc”, những đồng tiền “đen” thành đồng lương chân
chính, phân chia theo đúng nguyên lý “không sợ hàng thiếu chỉ sợ phân phối không công bằng”. Như thế đồng lương sẽ có thể đủ cho mọi người yên tâm
làm tốt những trách nhiệm. Phải xây dựng thiết chế xã hội dựa trên
cái phần yếu kém, tham lam, xấu xa của con người để ngăn chặn; phải thấy ai cũng vì mình trước mới vì mọi người; quan
chức phải có đặc quyền đặc lợi gắn liền với trọng trách.
Cần phải phân biệt đạo đức xã hội khác với đạo đức trong đạo giáo và sách luân lý, cán bộ đảng viên
không cần phải là thánh nhân mà chỉ đơn giản là làm tròn trách nhiệm và giữ được phẩm chất, thực thi đúng pháp luật. Với một cơ chế hợp lý, bộ khung pháp luật vững mạnh, không cần đa đảng mà chỉ cần một đảng, thậm chí chỉ cần vài tay lái có trình độ và bản lĩnh
thôi, con tầu đất nước vẫn đủ sức băng qua mọi phong
ba bão táp của cuộc sống, tiến thẳng đến đích “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; ngược lại nó mãi
mãi chỉ là cái khẩu hiệu suông
mà thôi!”
5-9-2013
NHỮNG CON ĐƯỜNG PHẢN BỘI
Nguyễn Trung trong bài: Đừng xuyên tạc lịch sử để đưa những điều sai trái vào Dự thảo Hiến pháp [đăng
trên “Bọ xít” (boxit)] đã cho “dư luận viên” của “lề phải” là “xuyên tạc lịch sử”. Bởi theo
ông khi Hiến pháp LX còn nguyên, điều lệ Đảng còn
nguyên mà họ lại cho sự tan rã của Liên Xô là “phản bội chủ nghĩa
Mác –Lên nin”! Tôi
không ngờ một người ở tầm Nguyễn Trung lại có sự quy kết người khác vô lý như thế. Bởi không
phải cứ Hiến pháp còn, Điều lệ còn thì không có sự phản bội. Viết vậy dường như ông
không biết đến cặp phạm trù Bản chất, Hiện tượng. Để xem có
phản bội hay
không cần phải phân
tích giữa lý luận và hành động trong
thực tiễn có ngược nhau hay không?
Việc Liên Xô tan rã vào thời điểm không có sự sửa đổi Hiến Pháp là đúng, điều lệ Đảng còn
nguyên vẹn là đúng, nhưng sự phản bội thực tế đã diễn ra trước đó
trong cả một quá
trình rất dài cả về lý luận, thực tiễn và sự thay đổi Điều lệ Đảng, Hiến pháp.
Sự phản bội đã được trình bầy rất rõ
trong loạt bài Những bài học từ sự sụp đổ của Đảng CS Liên Xô từng in trên báo Nhandan.online. Trong đó điều quan trọng nhất là sự xoá bỏ nguyên tắc tập trung
dân chủ trong sinh hoạt của Đảng.
Lê
Nin, tháng 4-1906, trong Đại hội lần thứ 4 Đảng
Bolshevik đã đề nghị thông qua điều lệ: Mọi tổ chức của Đảng đều được xây dựng trên nguyên tắc tập trung
dân chủ. Nhưng sau
Cách mạng Tháng Mười, các thế lực thù địch phá hoại điên cuồng, Lê
Nin đã tăng cường tính tập trung để giúp cho chính quyền Xô Viết non trẻ đứng vững. Nhưng điều này lại vi phạm dân chủ, dẫn đến khuynh hướng chuyên
quyền, độc đoán.
Vì thế Lê Nin đã cho thành lập Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ủy ban Giám sát Trung ương. Đến thời Stalin,
tệ sùng bái làm cho Stalin trở thành độc đoán. Ủy ban Giám sát chỉ giới hạn trong
việc kiểm tra hoạt động của tổ chức cấp dưới và những người bất đồng ý kiến. Đến thời Brê-zơ-nev đã vứt hẳn giám sát trong Đảng. Thời Gooc-ba-chov, trong Đại hội 28, Gooc-ba-chov đã công khai phê phán và cho thông qua Điều lệ Đảng xóa bỏ luôn
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Từ việc vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ đã dẫn đến một chuỗi sai lầm trong
công tác cán bộ. Khi lựa chọn cán bộ, tiêu
chuẩn tài - đức bị thay thế bởi sự chạy chọt, quen
thân, dẫn tới hiện tượng kéo
bè, kéo cánh.
Khơ-rút-shov từng thông
qua vợ của Stalin,
bạn học của ông ta ở đại học, để thể hiện “sự trung thành của mình”. Mấy chục năm sau, Gooc-ba-chov cũng có một hồi ức tương tự: “Khi
giữ chức Bí thư
Trung ương Đảng, Chernenko bảo tôi, “Bre-zơ-nev biết đồng chí đứng về phía đồng chí ấy, trung thành với đồng chí ấy. Đồng chí ấy rất coi trọng điều này”. Dưới thời Bre-zơ-nev, khi cân nhắc, đề bạt một ai đó,
vấn đề quan trọng hàng đầu là xem
người đó có quan hệ tốt với phe của Bre-zơ-nev hay không? Tikhonov, một người bình thường, nhưng do là
đồng hương kiêm bạn học của Bre-zơ-nev nên đã được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Bre-zơ-nev đã đặc biệt tâm đắc câu nói
của Khơ-rút-shov:
"Sự ổn định của đội ngũ cán bộ là sự bảo đảm cho
thành công", đã
phát triển thành chế độ chức vụ suốt đời. Các
cán bộ cao cấp của Liên Xô
như Bre-zơ-nev đều qua đời khi còn đương chức.
Khi
Gooc-ba-chov lên nắm quyền, ông ta thẳng tay
thay thế những cán bộ phản đối “cải tổ”,
đề bạt những cán bộ ủng hộ chủ trương “tây hóa”. Ông ta đã cài người vào các vị trí
trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư, thay thế hơn 20 bộ trưởng và
92,5% bí thư khu ủy, thành ủy, tỉnh ủy, đã tạo ra sự hỗn loạn chưa từng có
trong đội ngũ cán bộ ở Liên Xô, rơi vào
tình thế không thể nào cứu vãn nổi.
Như vậy sự phản bội Chủ nghĩa
Mác- Lê Nin ở đây chính là Nhà nước Liên Xô thực chất không phải là Xã hội Chủ nghĩa mà
là một Nhà nước Phong
kiến trá hình. Chính cái nhà nước này đã đẻ ra tầng lớp đặc quyền, đặc lợi, gây ra sự bất mãn sâu sắc trong
xã hội Liên Xô. Dưới thời
Gooc-ba-chov, tầng lớp đặc quyền còn mong muốn chiếm hữu lâu dài
mọi đặc quyền hiện có, để lại cho con
cháu đời sau. Vì thế khi đất nước đứng trước nguy cơ tồn vong, tầng lớp đặc quyền đã không ngần ngại lột bỏ mặt nạ, công khai thúc đẩy vứt bỏ CNXH đi
theo con đường của CNTB để hợp thức hóa tài
sản.
Cụ thể hơn, sự phản bội Chủ nghĩa Mác-Lê Nin còn là việc công kích trực diện Chủ nghĩa
Mác-Lê Nin. Thời trẻ, khi Gooc-ba-chov hình thành thế giới quan cũng chính là vào thời kỳ Khơ-rút-shov
phủ định hoàn
toàn Stalin, phủ định lịch sử của ĐCLX.
Điều này đã làm sụp đổ niềm tin vào lý tưởng Cộng sản của Gooc-ba-chov. Gooc-ba-chov từng nói: “Thời trẻ chúng tôi tin theo Đảng, trung thành gia nhập Đảng, nhưng sau Đại hội 20, tư tưởng của chúng tôi bắt đầu có sự thay đổi”. Gooc-ba-chov còn cùng nhà hoạt động xã hội Nhật Bản Daisaku Ikeda xuất bản cuốn sách
không chỉ chĩa mũi dùi vào Stalin mà
còn chĩa thẳng vào Lê Nin, vào Chủ nghĩa Mác. Gooc-ba-chov cho Liên Xô cần phải thực hiện một nền dân chủ không hạn chế, đưa ra phương án xây
dựng mô hình “Chủ nghĩa xã
hội dân chủ nhân đạo”, phủ nhận Chủ nghĩa
Mác, thực hiện đa đảng, xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. 1988, Hội nghị đại biểu lần thứ 19 của Đảng đã giải tán 23 ban trực thuộc Trung ương, Bộ Chính trị mấy tháng không họp, Đảng Cộng sản Liên Xô hoàn toàn mất quyền kiểm soát
tình hình. Sakharov, Popov kêu gọi sửa đổi Điều 6 trong Hiến pháp .
Enxin đại diện cho “phe dân chủ”
đòi đa đảng và được Gooc-ba-chov hoan nghênh. Ngày 12-3-1990, Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội đại biểu bất thường, thông qua nghị quyết về lập chức tổng thống Liên
Xô và luật bổ sung sửa đổi Hiến pháp
Liên Xô. Lời đề tựa, trước hết xóa đi
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đồng thời sửa đổi nội dung
trong Điều 6 của Hiến pháp.
Điều này thực chất là xóa
bỏ cơ sở pháp lý của việc Đảng Cộng sản Liên
Xô cầm quyền suốt 73 năm kể từ sau Cách mạng Tháng
Mười.
Như vậy, sự phản bội Chủ nghĩa
Mác – Lê Nin là toàn diện và triệt để, từ cơ sở lý luận, thực tiễn cho đến cả các văn bản pháp
lý. Chính nó đã làm tan rã Liên Xô.
Dường như đây
chính là bài học cho nhóm 72 trí thức nước ta áp dụng. Họ gần như đã copy
từng bước, từng hành động của những kẻ đã đập vỡ LX ngày nào. Từ việc nhân danh đấu tranh
cho dân chủ, vin vào mọi cớ để quấy rối, đến việc đưa Kiến nghị thay thế Hiến Pháp,
xóa bỏ sự hiến định quyền lãnh đạo của Đảng, tách
quân đội và công an khỏi Đảng, thay
đổi chế độ!
Nguyễn Trung trong bài Hiến Pháp và những sự bất cập của Dự thảo sửa đổi đăng
trên viet-studies.info/ của Trần Hữu Dũng viết:
- Trong
hệ thống nhà nước pháp quyền không thể có “đảng lãnh đạo” như là một bộ phận cấu thành của hệ thống quyền lực nhà nước.
-
Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân không thừa nhận bất kỳ thứ chủ nghĩa nào.
-
Mọi công cụ chuyên chính của nhà nước như quân đội, công an, những công cụ chuyên chính khác không phải là công cụ của bất kỳ đảng phái chính trị nào
ngoài nhà nước pháp
quyền và nhân dân.
Trong
thực tế “Nhà nước pháp
quyền”, “dân chủ”, “đa nguyên” không phải là những liều thuốc tiên
cho tất cả các nước. Việt Nam với một lịch sử bị xâu xé, xem trên mạng, nơi các suy nghĩ được bộc lộ tự do, mới thấy còn quá nhiều sự đối kháng về ý thức chính
trị và cả các quan
điểm về lịch sử, văn
hoá, lối sống. Để bảo vệ cho những ý của mình,
trong bài: Đừng xuyên tạc lịch sử để đưa những điều sai trái vào Dự thảo Hiến pháp Nguyễn Trung đã cho sự tan rã của Liên Xô “Đơn giản là họ bị các lực lượng dân chủ của nhân dân nước mình đánh bại”. Nhưng Nguyễn Trung đã sai bởi như đã phân tích, sự tan rã của Liên Xô là do một loạt nguyên nhân sâu xa về lý luận và thực tiễn. Để rồi cuối cùng,
như giọt nước tràn ly kết thúc mọi chuyện, đó
chính là việc Goóc-ba-chốp đã bị Enxin đánh bại.
Ngoài
những nguyên nhân chính như trên, sự tan rã của LX cũng có sự góp sức không nhỏ của Phương Tây. Từ năm 1989, Gooc-ba-chov bắt đầu cải tổ làm tình hình kinh tế ngày
càng xấu đi, ông ta đã phải quỳ gối cầu viện từ phương Tây, mở đường cho Phương Tây thực hiện mong ước xóa xổ LX bằng mồi nhử kinh tế. 5-1991,
Gooc-ba-chov đã cử một nhà kinh tế đi Mỹ cùng các chuyên gia Mỹ lập kế hoạch Harvard. Theo đó, mỗi năm phương Tây sẽ viện trợ cho Liên Xô từ 30 tỷ - 50 tỷ USD, tổng cộng trong
5 năm là 150 -200 tỷ USD, đáp lại Liên Xô
phải thực hiện cải tổ. Nhưng thực chất Tổng thống Nixon
đã nói: “Lợi ích chiến lược lúc này
không phải là cứu vớt Moscow
về kinh tế mà là phá hủy chế độ XHCN ở Liên Xô”. Kết quả LX không nhận được một xu nào.
Dù vậy, Gooc-ba-chov đã “đâm lao thì phải theo lao”, vẫn phải làm theo con đường phương Tây dẫn dụ. Nhờ đó,
riêng Gooc-ba-chov đã được phương Tây trả công bằng giải Nobel
hòa bình năm 1990 và rất nhiều tiền dưới hình thức nhuận bút và hình thức khác.
Dù vậy, khi trở thành
kẻ bên lề lang thang, ông ta vẫn không
thoát khỏi mặc cảm là tội phạm chủ chốt làm tan
vỡ LX và đã phải thú nhận sự nghiệp chính
trị của mình là
thất bại.
Với Enxin, một người có bản chất chống đối, phương Tây
cũng coi là đối tượng vận động trọng điểm để tìm cách phân hóa Liên Xô. Khi Enxin có được thế lực, đã được mời thăm Hoa Kỳ và được tiếp đón trọng thị. Enxin đã báo đáp ân huệ mà Hoa
Kỳ dành cho mình bằng cách
tháng 12-1991, trước khi mật bàn với lãnh đạo Ukraine về việc giải thể Liên Xô, ông đã ta thông báo việc này với Hoa Kỳ.
Như vậy, từ sai lầm và tham
vọng, Gooc-ba-chov và Enxin đã làm tay
sai cho Phương Tây phá nát chính Tổ Quốc của mình. Mục đích
chính của họ chỉ là phá vỡ đối trọng chủ yếu trên
bàn cờ thế giới! Nên xong việc những nước thuộc LX
cũ chỉ như dạng chư hầu vương vãi của họ mà thôi!
Cuối cùng việc LX tan rã chỉ tạo điều kiện cho thế giới trở thành đơn cực nguy hiểm. Chúng ta đều biết kẻ mạnh thường tham.
Trong lịch sử, ta từng thấy quân
Nguyên Mông muốn thống trị thế giới như thế nào, rồi bọn Phát xít từng thực hiện tham vọng “làm cỏ” thế giới như thế nào!
Tổng thống Nga
Putin, người được hưởng lợi nhiều nhất từ sự tan rã của LX, vẫn phải chua
xót nói: “Sự sụp đổ của Liên
bang Xô Viết là một thảm hoạ địa chính
trị lớn nhất của thể kỷ 20”. Đến cả
Solzhenitsyn, tác giả đã kịch liệt phủ định Stalin
khi suy ngẫm lại cũng phải thừa nhận “Tôi đã hại Tổ quốc Nga”. Còn cựu Tổng thống Ukraine Kravchuk, một trong
ba nhân vật tham gia ký kết hiệp định giải thể Liên Xô sau này cũng nói: “Nếu như năm 1991, tôi biết được cục diện đất nước sẽ phát triển đến như cục diện như hôm nay
thì khi đó tôi đã nhất quyết chặt đứt cánh tay mình chứ không ký vào Hiệp định”.
Con
người luôn có phần con và phần người vì vậy các nhà
tư tưởng, các
nhà khoa học xã hội đã đặt ra các
biện pháp để phát huy phần người và khống chế phần con, như nhà nước thì có
luật pháp còn Chủ nghĩa Mác Lê Nin có nguyên tắc tập trung
dân chủ. Hai vế của nguyên
lý này luôn phải cân bằng và tùy thuộc vào thực tế, nếu không đều dẫn đến tai họa. Bài học từ sự tan rã
Liên Xô thật đau đớn. Chỉ có con
người xây dựng nhưng sự đập phá
cũng chính từ bàn tay con người. Những kẻ dốt, ác nhưng lại tham vọng chính là những kẻ phá hoại. Những kẽ hở, những sai lầm của công tác cán bộ giúp
chúng có vị trí và dần tạo được thế lực để rồi gây họa. Thật e ngại trước tình trạng ở ta cũng có không ít công chức cao cấp vào Đảng chỉ để cầu quyền lợi, hưu rồi không cần nữa thì trở mặt chống Đảng. Kỳ lạ hơn nữa là có cả một số còn đương chức. Như trường hợp Phạm Xuân Nguyên chẳng hạn, là một trưởng phòng của Viện Văn, một Chủ tịch Hội Nhà Văn Thủ đô HN,
nhưng một tay nhận Huy hiệu 30 năm
tuổi Đảng còn một tay lại ký tên
trong Danh sách đòi từ bỏ sự hiến định quyền lãnh đạo của Đảng! Tất nhiên
không phải họ ngu dốt không
phân biệt được tốt xấu, đúng
sai, mà chính là họ đã bất chấp tất cả để trục lợi. Phải chăng
vì nhu nhược, vì cả nể, hay xã
hội ta không còn chuẩn mực của đạo lý nữa nên
mới có tình trạng trắng đen lẫn lộn, thiện ác bất minh như vậy? Sự tan rã LX chính là vì người ta nhu
nhược không dám bắt giam Gooc-ba-chov, còn chuyện Gooc-ba-chov thua Enxin cũng chính là vì Gooc-ba-chov
không dám bắt giam Enxin! Cũng thật e ngại khi “Nhà nước pháp quyền”; “dân chủ” đang trở thành “mốt” của ngôn ngữ chính trị. Cả chuyện phúc quyết toàn
dân Dự thảo Hiện pháp cũng vậy. Từ “nghị” Quốc, Bộ trưởng Tư pháp Hà
Hùng Cường đến cựu Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Văn An
đều cho rằng Dự thảo Hiến pháp cần phải được phúc
quyết toàn dân. Nhưng nhìn một cách thực tế, nếu như vậy, lá phiếu của các vị cũng chỉ có giá trị ngang với bà bán cá, bán rau không hiểu chữ Hiến pháp là gì. Như vậy liệu kết quả phúc quyết toàn dân sẽ là tốt và đúng đắn hơn chăng? Cạnh đó, việc nhân danh đấu tranh
cho dân chủ để viết bậy, nói bậy, làm
càn cũng diễn ra tùm lum. Đỉnh điểm là vụ“nhóm
72” ngang nhiên đưa Kiến nghị đòi “lật pháp”, thay đổi thể chế. Có điều khó hiểu là tại sao có nhiều người có trình độ chuyên
môn rất cao nhưng lại rất hăm hở muốn nước ta đi
theo vết xe đổ của LX như vậy? Các vị cần phải biết Liên Xô
là một nước hùng mạnh, khoa học Kỹ thuật tiên tiến. Hồi Đại chiến Thế giới, LX tự mình sản xuất xe tăng, máy bay, đạn dược, đánh tận sào huyệt Phát xít Đức, khiến Hít
Le phải tự sát. Nước Nga cũng giàu tài nguyên khoáng sản, ý thức dân
chúng thuần nhất không bị ngoại bang đô hộ nên
không phức tạp như nước ta, nên sau sự tan rã của LX nước Nga đã
phần nào hồi phục. Còn Việt Nam ta nếu sụp đổ, như lịch sử đã nhiều lần lặp lại, sẽ là hỗn loạn, là
giành giật cấu xé, là sự can thiệp của ngoại bang, là nồi da xáo
thịt, sẽ là bản sao dạng
Pakistan, Apganistan, Irac, Lybi hôm qua, hoặc như Ai Cập, Xyri
trong những ngày hôm nay, chứ còn lâu mới được như nước Nga.
TPHCM
9-9-2013
ĐÔNG LA (Blog Đông La)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét