Trang

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012


19:51

Phương trình kế toán được "xếp hạng" của các TĐ-TCT


(Tamnhin.net) - Tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lên tới 10 lần, có đáng báo động không khi khả năng trả nợ của các tập đoàn (TĐ) - tổng công ty (TCT)hiện tại là rất thấp, vay nợ để đầu tư kinh doanh không hiệu quả thua lỗ. Và điều gì sẽ diễn ra nếu các ông lớn này phải đối mặt với khả năng không thanh toán được những khoản nợ đến hạn trả...?

Bộ Tài chính công bố tỷ lệ nợ phải trả /vốn chủ sở hữu ở các TĐ và TCT NN hiện nay gấp 3-10 lần (nợ lớn hơn vốn từ 3-10 lần) với tỷ lệ này có lẽ được xếp hạng A trên thế giới và báo động nguy cơ...gì gì nhỉ?.

Nhìn vào con số nợ của các TĐ-TCT đang nổi lên một vấn đề, đó là nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp (DN), vốn tự có chiếm tỷ lệ rất thấp. Trong đó, nguồn vốn vay của ngân hàng và nguồn vốn chiếm dụng lẫn nhau cũng rất cao, cho thấy tình hình tài chính của rất nhiều DN trong các TĐ-TCT không lành mạnh. Do đó lợi nhuận lũy kế trên tổng tài sản không bằng một số thành phần kinh tế khác. Nói chung, với mức nợ lớn gấp 3 lần thì tình hình tài chính của TĐ-TCT đang ở mức phải cảnh báo,còn đến 10 lần rất đáng báo động. Hay sẽ được xếp hạng "A" hoặc "kỷ lục".

Cụ thể trong tổng dư nợ hơn 400.000 tỉ đồng của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), riêng TĐ-TCT chiếm hơn 200.000 tỉ đồng. Như vậy đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay, ngoài tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu, chúng ta còn phải nhìn vào các chỉ số tài chính khác, nhưng điều đầu tiên có thể nhìn thấy là nguồn hình thành lên tài sản của DN rõ ràng chủ yếu do vốn đi vay, chiếm tỷ lệ tương đối cao nếu không muốn nói là rất cao.

Trong khi đó, lãi suất (LS) vay lại không ổn định, ví dụ ban đầu DN lập phương án đầu tư LS chỉ 12%/năm, nhưng đến lúc triển khai lên tới hơn 20%/năm, dẫn tới gánh nặng chi phí quá lớn. Theo đánh giá gần đây, yếu tố LS chiếm tỷ lệ rất cao trong chi phí kinh doanh của DN, vì vậy, khi DN chịu sức ép LS đồng nghĩa với khả năng thua lỗ lớn. Nhưng nguy hiểm hơn, nếu không có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền khiến các ngân hàng không thu được nợ, tạo ra vòng xoáy nợ, chiếm dụng nhau.

Như vậy so với quy mô, tiềm năng, lợi thế thì hiệu quả hoạt động, kinh doanh của TĐ-TCT là rất kém, không xứng tầm, thua các thành phần kinh tế khác. Vừa qua, việc quản lý vốn nhà nước, tài sản nhà nước rất yếu kém,còn lỏng lẻo. Trước kia, Bộ Tài chính có riêng một tổng cục quản lý vốn DN, các DNNN được giao cho các Bộ, UBND tỉnh quản lý. Nhưng từ khi hội nhập, chúng ta bỏ cơ chế bộ chủ quản, thành ra buông lỏng quản lý. Một TĐ-TCT hoạt động theo luật có rất nhiều đại diện chủ sở hữu là bộ, ngành giám sát, nhưng thực tế các đơn vị này không làm hết trách nhiệm.

Vì vậy trong tái cấu trúc DNNN mà trọng tâm là TĐ-TCT cần phải xây dựng được một hệ thống quản trị rủi ro, hay đưa ra một loạt quy tắc chuẩn mực về tài chính. Ví dụ, nếu vốn đi vay - nợ chiếm bao nhiêu lần vốn chủ sở hữu phải cảnh báo ngay, nhưng hiện tại chúng ta chưa có chuẩn đó, chỉ có các chuyên gia phân tích, đánh giá chung chung. Bộ Tài chính phải xây dựng, tham mưu cho Chính phủ đưa ra bộ quy tắc chuẩn này, từ đó định kỳ 6 tháng 1 lần đối chiếu, 1 năm tổng kết dựa trên báo cáo kiểm toán soi thật rõ, nếu DN nào vượt hệ số an toàn thì phải cảnh báo. Từ đó các ngân hàng cũng nhìn vào để xem xét cho vay hay không.Nói cách khác cần phải công khai và minh bạch về tài chính (tài sản, nguồn vốn ) và phương án, hiệu quả kinh doanh trước toàn dân.

Nhưng môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh bình đẳng là cần xóa bỏ yếu tố độc quyền và chúng ta đang trong quá trình giảm tối đa sự độc quyền của TĐ-TCT trong quá trình tái cơ cấu. Thực tế, hiện nay chỉ một vài lĩnh vực như điện, xăng dầu các TĐ-TCT còn chiếm thị phần lớn, còn các lĩnh vực khác cũng đã vận hành theo cơ chế thị trường. Nhưng điều cần bàn là dù có lợi thế độc quyền như thế nhưng quản lý. Giám sát họat động kinh doanh không tốt, đồng thời có nhiều lỗ hổng khe hở để "tham nhũng" do vậy các TĐ- TCT này hiện đang lỗ lớn.

Có thể nói chính sách và hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay không khống chế sự lớn mạnh bất cứ thành phần DN nào, dù nhà nước hay tư nhân. Mọi DN đều bình đẳng, điều đó thể hiện rõ nhất khi DNNN chuyển qua hoạt động theo luật DN chung và luật không cản các thành phần kinh tế phát triển, mở rộng đầu tư, sản xuất.

Khi nhà nước sẵn sàng tạo ra một sân chơi bình đẳng, sẵn sàng tạo điều kiện cơ chế để cho DN tư nhân phát triển - chủ trương này đang được Đảng và Nhà nước thực hiện. Những chính sách ưu đãi đó là giảm gánh nặng về thuế, cải cách thủ tục hành chính từ việc sửa đổi luật Quản lý thuế, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng. Nhưng một sự ổn định thực sự của kinh tế vĩ mô là sự ổn định về tài chính của các TPKT vững về vốn và hiệu quả kinh doanh chứ thực sự như tỷ lệ nợ phải trả lớn gấp 3 đên 10 lần vốn chủ sở hữu như hiện nay của các TĐ- TCT thì thực sự là không thể bình tĩnh được nữa cần thổi hồi còi dài báo động cho sự bất an về sức khỏe thực của các ông lớn này.

GS Đặng Hùng Võ cũng có những ý kiến trong buổi tọa đàm "Nhà nước và Doanh nghiệp" khi tai cấu trúc các DNN cần chú ý những vấn đề sau:

Đối với doanh nghiệp NN thì về nguyên tắc và cơ chế thị trường thì chúng ta không được độc quyền, đã độc quyền thì thị trường sẽ méo. Như ở Âu Mỹ và các nước công nghiệp phát triển, nếu doanh nghiệp chiếm trên 30% thị phần thì pháp luậtsẽ phải xử lý hoặc chia đôi doanh nghiệp và để chống độc quyền. Đó là một điều kiện của kinh tế thị trường.

Vì như hiện nay yếu tố tham nhũng đang chiếm tỷ lệ khá cao, nguy cơ tham nhũng luôn chỉ ra được ngay trong cơ chế của các doanh nghiệp nhà nước ở VN. Một quyết định hành chính có thể giao một lượng vốn khổng lồ cho tập đoàn này, tổng cty kia sau đó giám sát thế nào thì không có

Hơn nữa nói đến cái cửa tham nhũng của các doanh nghiệp NN thì chúng ta rất dễ thấy. Việc nhà nước có thể quyết định vài chục nghìn tỷ, trái phiếu chính phủ bán ra để cho doanh nghiệp này hay cho doanh nghiệp khác chẳng có ai tham gia vào việc quyết định đó ngoài một vài người.Rồi quản lý như thế nào, ra làm sao thì sự thực, một hệ thống MNE là 1 hệ thống đương nhiên phải có để giám sát mọi việc trong triển khai thì Việt Nam lại không có. Và rồi các tập đoàn, doanh nghiệp NN muốn làm thế nào thì làm, miễn là thực hiện cho được những nghĩa vụ "bất thành văn" Nếu nói rằng, tham nhũng xuất phát từ nguyên nhân giao vốn cũng có thể coi là 1 việc.Và như cơ chế hiện nay thì tham nhũng còn xuất phát từ việc giao nhiệm vụ. Bởi vì cứ doanh nghiệp NN thì sẽ được chính quyền giao nhiệm vụ trực tiếp, không cần qua đấu thầu hay bất cứ một thủ tục gì cả. Thế còn giao nhiệm vụ trực tiếp với đơn giá nào, ai kiểm soát thì đều không có.

Vấn đề hiện nay quan trọng nhất chỉ cần pháp luật ra một quy định mọi hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải được công khai, bao gồm số liệu tài chính, doanh thu và mọi hoạt động. Hàng năm, nhà nước phải có thực hiện kiểm toán và báo cáo kiểm toán công khai trước nhân dân.Tóm lại, phải đề ra một yêu cầu về công khai, minh bạch và biện pháp thực hiệncông khai, minh bạch là như thế nào. Thứ hai là thực hiện theo đúng quy định đóvà các chế tài xử lý nếu vi phạm. ông cho rằng chỉ cần một giải pháp đó thôi,là sẽ đẩy được khá nhiều việc đi và chắc chắn sẽ không còn cảnh nợ nần phải trả vượt quá 3 đến 10 lần vốn sỡ hữu chủ như hiện nay Đúng là đặc trưng của phương trình kế toán và bảng cân đối tài sản của khối TĐ- TCT DNNN Việt Nam.
(Theo Tamnhin.net) Mai Phương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét